Quan điểm của Đảng về xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong Văn kiện Đại hội XIII
Quyền lực nhà nước và kiểm soát quyền lực nhà nước là những vấn đề trung tâm trong đời sống chính trị của mỗi quốc gia. Quyền lực nhà nước luôn mang tính hai mặt, một mặt là yếu tố không thể thiếu để tổ chức và quản lý xã hội, mặt khác nó luôn tiềm ẩn nguy cơ bị tha hóa dẫn đến sự chuyên quyền, độc đoán, đi ngược lại với lợi ích của nhân dân vốn là chủ thể của quyền lực nhà nước. Nhận thức điều đó, Đại hội XIII của Đảng trên cơ sở đánh giá thực trạng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, đã đề ra những quan điểm mang tính định hướng xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, bao gồm: cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong do các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp kiểm soát lẫn nhau; cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài do các chủ thể không phải là Nhà nước thực hiện, mà quan trọng nhất là vai trò kiểm tra, giám sát của nhân dân.
1. Đánh giá thực trạng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
Trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta đưa ra nhận định về kết quả đạt được trong thực hiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước: “Cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng rõ hơn và có chuyển biến tích cực”(1). Tuy nhiên, cơ chế kiểm soát quyền lực trong bộ máy nhà nước mặc dù đã được thiết lập nhưng chưa thể hiện đầy đủ tinh thần được ghi nhận trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (Bổ sung, phát triển năm 2011) cũng như trong Hiến pháp năm 2013 là có sự kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện; chức năng, nhiệm vụ, phân cấp, phân quyền chưa thật rõ ràng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động còn hạn chế; “cơ chế kiểm soát quyền lực trong và Nhà nước chưa đầy đủ, đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả chưa cao”(2).
Thực tiễn cho thấy, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các các cơ quan nhà nước thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp mặc dù đã được thiết lập, nhưng vẫn còn những bất cập ở tầm vĩ mô. Cơ chế kiểm soát quyền lực của Quốc hội đối với cơ quan hành pháp và tư pháp mới chỉ được thiết lập, mà chưa có cơ chế kiểm soát quyền lực ngược lại của hai cơ quan này đối với Quốc hội. Việc thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội chưa thật đúng tính chất, còn dàn trải, chưa tập trung vào những vấn đề lớn của các cơ quan nhà nước; trong quá trình thực hiện quyền giám sát tối cao, Quốc hội hiếm khi đưa ra quyết định về việc bãi bỏ một phần hay toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật của các đối tượng mà mình giám sát. Việc kiểm soát từ bên ngoài của các cơ quan Đảng, của nhân dân, của các tổ chức chính trị - xã hội, của truyền thông, báo chí mặc dù ngày càng được chú trọng, nhưng vẫn chưa thường xuyên, chưa hiệu quả vì thể chế, cơ chế của sự kiểm soát bên ngoài vẫn còn nhiều điểm bất hợp lý, chậm được sửa đổi. Các thiết chế kiểm soát độc lập như Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước, cơ chế bảo vệ Hiến pháp cũng còn nhiều nội dung phải được tiếp tục hoàn thiện trước yêu cầu của tình hình mới.
2. Nội dung quan điểm của Đảng về xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
Một là, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước.
Để bảo đảm kiểm soát quyền lực nhà nước, nội dung quan trọng là phải tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Theo Văn kiện Đại hội XIII, cần xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, đảm bảo quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước; phân định rõ chức năng, quyền hạn của từng cơ quan, tổ chức, khắc phục tình trạng chồng chéo, trùng lắp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan, tổ chức; “Đẩy mạnh cơ chế phân cấp, phân quyền, bảo đảm quản lý thống nhất, hiệu lực, hiệu quả hoạt động; đồng thời phát huy tính chủ động, sáng tạo, đề cao tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành gắn với cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả”(3).
Để thực hiện tốt cơ chế kiểm soát quyền lực với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, phải tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm để Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất; đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng và hiểu quả hoạt động, phát huy dân chủ, pháp quyền, trong thực hiện chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao. Đồng thời, hoàn thiện cơ chế giám sát, lấy phiếu, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn.
Để kiểm soát quyền lực nhà nước về hành pháp của Chính phủ. Theo Văn kiện Đại hội XIII, cần tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; phát huy đầy đủ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội; đẩy mạnh và hoàn thiện cơ chế phân cấp, phân quyền, ủy quyền, bảo đảm quản lý thống nhất, hiệu lực, hiệu quả hoạt động; đồng thời phát huy tính chủ động, sáng tạo, đề cao tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành gắn với cơ chế kiểm soát quyền lực. Đây có thể được xem là biện pháp kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước từ gốc, ngăn chặn sự tùy tiện, lạm quyền của cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước.
Để kiểm soát quyền lực bằng Hiến pháp, hệ thống pháp luật và chế độ tư pháp nhằm bảo đảm cho các tổ chức, cá nhân hoạt động theo đúng các chế định của Hiến pháp và pháp luật. Theo Văn kiện Đại hội XIII, hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân; cần tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động và uy tín của tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân; gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với tổ chức thi hành pháp luật, nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật.
Đối với việc kiểm soát quyền lực đối với cán bộ, công chức. Theo Văn kiện Đại hội XIII, cần phải tăng cường kỷ luật, kỷ cương và có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, bị xử kỷ luật, không còn uy tín với nhân dân; cần có “Quy định rõ và đề cao trách nhiệm người đứng đầu; có cơ chế khuyến khích, khơi dậy tinh thần cống hiến vì đất nước, tạo động lực và áp lực để mọi cán bộ, công chức, viên chức hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, tận tụy phục vụ nhân dân; có cơ chế bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung”(4); thực hiện kiên trì, kiên quyết, có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; đẩy mạnh công tác chọn lọc, quy hoạch, đào tạo các thế hệ cán bộ, công chức có đức, có tài, có bản lĩnh chính trị dựa trên cơ chế cạnh tranh về tuyển dụng, chế độ đãi ngộ, đề bạt và đánh giá công bằng.
Hai là, hoàn thiện cơ chế để các thiết chế thực hiện kiểm soát quyền lực bên ngoài bộ máy nhà nước.
Kiểm soát quyền lực từ bên ngoài nhà nước được hiểu là sự kiểm soát của các thiết chế không mang tính quyền lực nhà nước. Các thiết chế này nhận sự ủy quyền của nhân dân, là sự tập hợp ý chí, nguyện vọng của nhân dân, hoạt động trên các tôn chỉ, điều lệ của tổ chức. Trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, việc phát huy vai trò của các thiết chế kiểm soát quyền lực bên ngoài bộ máy nhà nước bao gồm các chủ thể sau:
Thứ nhất, tăng cường kiểm soát quyền lực của Đảng đối với Nhà nước.
Nâng cao năng lực thể chế hóa quan điểm của Đảng về kiểm soát quyền lực nhà nước trong hoạt động xây dựng pháp luật. Đảng kiểm soát quyền lực đối với Nhà nước thể hiện ở việc ban hành chủ trương, chính sách để Nhà nước cụ thể hóa bằng các quy định của pháp luật. Hoạt động xây dựng pháp luật phải thể chế hóa phải kịp thời, đồng bộ; chương trình xây dựng pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà nước phải bảo đảm tính khả thi, phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng về kiểm soát quyền lực nhà nước và phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Quán triệt quan điểm trên, Đảng cần phải tăng cường lãnh đạo Quốc hội, Chính phủ thể chế hóa và thực hiện có hiệu quả Cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng; chú trọng lãnh đạo, đổi mới, nâng cao chất lượng lập pháp, cải cách hành chính, cải cách tư pháp trên cơ sở đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực bằng hệ thống pháp luật. Do vậy, cần sớm hoàn thiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về kinh tế - xã hội, về kiểm tra, giám sát và phòng, chống tham nhũng, lãng phí, nhất là các quy định về kiểm soát quyền lực, trách nhiệm người đứng đầu, trách nhiệm giải trình, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch. Đồng thời, tiếp tục nghiên cứu, luận chứng rõ căn cứ khoa học và pháp lý để hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp như là một thiết chế chuyên trách kiểm soát quyền lực nhà nước.
Phát huy vai trò của Đảng cẩm quyền trong hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước. Phát huy vai trò và năng lực kiểm tra, giám sát của Ủy ban kiểm tra các cấp đối với đảng viên, nhất là các đảng viên là cán bộ lãnh đạo quản lý trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao; kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những biểu hiện lệch lạc trong thực hiện quy định Điều lệ Đảng, các quy chế, quy định của Đảng. Các tổ chức đảng có thẩm quyền phải xử lý nghiêm minh, kịp thời và công khai đối với những đảng viên, nhất là đảng viên giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý trong cơ quan nhà nước có hành vi vi phạm pháp luật. Quán triệt và thống nhất thực hiện tốt quy định về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, chống chạy chức, chạy quyền, “Kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong từng khâu của công tác cán bộ, nhất là đối với người đứng đầu cấp ủy đồng thời là thủ trưởng cơ quan đơn vị, chủ tịch ủy ban nhân dân. Giữ vững kỷ luật, kỷ cương; tăng cường kiểm tra, giám sát, chống chạy chức, chạy quyền”(5); xử lý nghiêm minh, đồng bộ kỷ luật đảng, kỷ luật hành chính và xử lý bằng pháp luật đối với cán bộ có vi phạm, kể cả khi đã chuyển công tác hoặc nghỉ hưu.
Thứ hai, phát huy vai trò của nhân dân với tư cách là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước trong kiểm soát quyền lực nhà nước.
Kiểm soát quyền lực nhà nước giữa nhân dân - chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước, đối với Nhà nước - chủ thể quản lý. Đây là mối quan hệ kiểm soát quyền lực của người chủ đối với Nhà nước. Vì vậy, Đại hội XIII của Đảng xác định cần tiếp tục thể chế hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013, đảm bảo tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân và thực hiện đúng đắn, có hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ cơ sở.
Thực tiễn chỉ ra rằng, chỉ có phân định một cách thực chất, giao quyền một cách rõ ràng những nhiệm vụ quyền hạn gì cho Nhà nước, còn những gì nhân dân thực thi quyền lực nhà nước một cách trực tiếp hoặc thông qua tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp của mình thì nhân dân mới thực hiện được quyền kiểm soát quyền lực nhà nước có hiệu quả. Đồng thời, với vai trò kiểm soát quyền lực của nhân dân, cần phải “Phát huy tính tích cực chính trị - xã hội, trí tuệ, quyền và trách nhiệm của nhân dân tham gia… xây dựng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa…, xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức”(6). Thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám giát, dân thụ hưởng”. Đặc biệt, hoàn thiện và cụ thể hóa cơ chế nhân dân thực hiện được quyền bãi nhiệm và miễn nhiệm những người do mình bầu ra khi họ không còn xứng đáng.
Thứ ba, tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước gắn với việc phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Quyền lực nhà nước được kiểm soát từ bên ngoài thông qua các hình thức nhân dân tham gia tất cả các khâu của quá trình ra quyết định, giám sát quá trình thực hiện; quy định và thực hiện giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cùng với nhân dân góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Đây là phương thức kiểm soát có hiệu lực, hiệu quả. Do đó, cần quan tâm hơn đến phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài, nhất là kiểm soát của Mặt trận Tổ quốc, các thành viên của Mặt trận Tổ quốc.
Kiểm soát quyền lực nhà nước bằng việc thực hiện vai trò làm chủ, sự giám sát của nhân dân một cách trực tiếp hoặc thông qua Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức nhân dân. Cũng như đối với tổ chức đảng và đảng viên, các cơ quan, tổ chức nhà nước và các cá nhân nắm giữ các trách nhiệm trong bộ máy nhà nước phải chịu sự giám sát, kiểm soát của nhân dân. Theo các quy định của pháp luật, người dân có quyền kiểm soát, giám sát, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của mình đối với các cơ quan, tổ chức và các cán bộ, công chức, viên chức nhà nước trong việc thi hành công vụ. Vì vậy, trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta xác định cần thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên, tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước và “Phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí”(7).
Thứ tư, phát huy vai trò của các cơ quan truyền thông trong kiểm soát quyền lực nhà nước.
Tuyền thông được xác định là một phương thức quan trọng đối với việc thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước. Các cơ quan truyền thông đại chúng vừa là chủ thể, vừa là phương tiện kiểm soát quyền lực nhà nước. Truyền thông đại chúng giúp nhân dân kiểm tra, giám sát hoạt động các cơ quan công quyền, quá trình hoạch định chính sách của nhà nước. Nhờ truyền thông mà người dân có thể vạch trần, phê phán các hoạt động sai trái của cán bộ, công chức, viên chức tại các cơ quan nhà nước. Xuất phát từ vai trò quan trọng của truyền thông, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh cần phải: “Phát huy vai trò, trách nhiệm của…, các cơ quan truyền thông, báo chí trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí”(8).
Có thể nói, ở nước ta chưa bao giờ các cơ quan truyền thông, báo chí lại phát triển mạnh mẽ và có vai trò to lớn trong kiểm soát quyền lực nhà nước như hiện nay. Thông qua truyền thông những tiêu cực được vạch trần, phê phán, như: cửa quyền, sách nhiễu, tham nhũng, lãng phí, quan liêu và các biểu hiện tiêu cực khác, là ép buộc các cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước phải khắc phục, chấn chỉnh, sửa chữa.
Trong thời gian qua, mặc dù đạt được nhiều kết quả quan trọng và có chuyển biến tích cực trong nhận thức cũng như thực thi về cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước chưa hoàn thiện đầy đủ, đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Đó là lý do, cơ sở để Đại hội XIII của Đảng có những bổ sung những quan điểm quan trọng về cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ta trong tình hình mới. Là sự bổ sung rất quan trọng về lý luận xây dựng và thực tiễn hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta trong giai đoạn hiện nay và thời kỳ tiếp theo./.
__________________________________
(1), (4), (5), (6), (7), (8) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQG Sự thật, T.I, tr.72, 280, 243, 173-174, 196, 196.
(2), (3) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Sđd, T.II, tr.217, 147.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Mạnh Bình (2012), “Hoàn thiện cơ chế pháp lý giám sát xã hội đối với việc thực thi quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay”, Nxb. CTQG Sự thật, Hà Nội.
2. Phùng Hữu Phú, Tạ Ngọc Tấn, Vũ Văn Hiền…, Những điểm mới trong các văn kiện Đại hội XIII của Đảng, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2021.
3. Tạ Ngọc Tấn, Phạm Văn Đức (ch.b.), Phùng Hữu Phú..., Một số vấn đề chính trị và pháp luật đặt ra trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2020.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông số tháng 10/2021
Bài liên quan
- Thiêng liêng cao quý chữ "Độc lập - Tự do - Hạnh phúc"
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách lãnh đạo của cán bộ, đảng viên
- Yêu cầu về chất lượng thông tin Cổng thông tin điện tử các trường đại học hiện nay
- Giải pháp nâng cao năng lực đội ngũ công chức cấp xã ở tỉnh Hà Tĩnh hiện nay
- Cán bộ, đảng viên Đảng bộ Học viện Báo chí và Tuyên truyền với việc giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa trường Đảng
Xem nhiều
-
1
Phim Tài liệu: Video Khoa xây dựng Đảng 50 năm Xây dựng và Phát triển
-
2
Xây dựng khung đạo đức và quản trị trí tuệ nhân tạo (AI) trong truyền thông chính sách tại Việt Nam
-
3
Nâng cao năng lực số cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã trong mô hình chính quyền địa phương hai cấp ở Việt Nam hiện nay
-
4
Các xu hướng sáng tạo nội dung truyền thông marketing hiện nay
-
5
Xử lý khủng hoảng của doanh nghiệp sản xuất và phân phối thực phẩm chế biến sẵn tại Việt Nam
-
6
Nâng cao chất lượng hoạt động của Đảng ủy phường Yên Bái, tỉnh Lào Cai hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Tác phẩm báo chí dữ liệu về môi trường trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
Là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nghiêm trọng nhất từ biến đổi khí hậu, nhu cầu truyền tải thông tin môi trường một cách chính xác, kịp thời, dễ hiểu và hấp dẫn đến công chúng là một yêu cầu cấp thiết tại Việt Nam. Báo chí dữ liệu (Data Journalism) với sự kết hợp giữa công nghệ, phân tích dữ liệu và kỹ thuật kể chuyện có khả năng chuyển hóa những tập dữ liệu phức tạp thành thông tin sinh động, trực quan và dễ tiếp cận, do đó, đặc biệt phù hợp trong việc truyền tải các vấn đề như môi trường. Trên cơ sở đó, bài viết sẽ đi sâu vào nghiên cứu về thực trạng tác phẩm báo chí dữ liệu về môi trường ở Việt Nam, đánh giá ưu điểm và nhược điểm, chỉ ra nguyên nhân, từ đó đề xuất một số giải pháp để phát triển tác phẩm báo chí dữ liệu về môi trường trên báo mạng điện tử ở Việt Nam hiện nay.
Thiêng liêng cao quý chữ "Độc lập - Tự do - Hạnh phúc"
Thiêng liêng cao quý chữ "Độc lập - Tự do - Hạnh phúc"
Từ mùa thu năm 1945 lịch sử đến hôm nay, cụm từ “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” vẫn vang vọng như một lời thề thiêng liêng, bất biến của dân tộc Việt Nam. Đó không chỉ là dòng chữ trang trọng nơi đầu mỗi văn bản, mà là mục tiêu sống, là giá trị cốt lõi được xây đắp bằng máu xương của bao thế hệ. Nhìn lại chặng đường phát triển đất nước, chúng ta càng thấm thía giá trị hòa bình, càng nhận rõ trách nhiệm giữ gìn, phát huy để thế hệ hôm nay và mai sau thực sự được sống trong độc lập, được thụ hưởng tự do, được trọn vẹn hạnh phúc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách lãnh đạo của cán bộ, đảng viên
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách lãnh đạo của cán bộ, đảng viên
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách lãnh đạo của cán bộ, đảng viên là một hệ thống quan điểm có tính toàn diện, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn lãnh đạo cách mạng của Người. Tư tưởng và phong cách lãnh đạo của Hồ Chí Minh thể hiện ở tư duy đổi mới, phương pháp làm việc khoa học, dân chủ, nêu gương, gắn bó với quần chúng. Đồng thời, Người yêu cầu lãnh đạo phải dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám hy sinh vì lợi ích chung, chống quan liêu, hình thức, chủ nghĩa cá nhân. Phong cách lãnh đạo Hồ Chí Minh vì vậy là tấm gương mẫu mực về đạo đức, trí tuệ và bản lĩnh, mãi soi sáng cho công tác lãnh đạo, quản lý và rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay.
Yêu cầu về chất lượng thông tin Cổng thông tin điện tử các trường đại học hiện nay
Yêu cầu về chất lượng thông tin Cổng thông tin điện tử các trường đại học hiện nay
Trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ, Cổng thông tin điện tử (Cổng TTĐT) của các trường đại học không chỉ đóng vai trò là kênh cung cấp thông tin chính thống mà còn trở thành công cụ hỗ trợ đào tạo - nghiên cứu, quảng bá hình ảnh của nhà trường. Cho đến nay, hầu hết các trường đại học ở Việt Nam đều đã xây dựng và vận hành Cổng TTĐT, thể hiện sự quan tâm và nhận thức rõ ràng về tầm quan trọng của loại hình truyền thông này. Nhiều Cổng đã phát huy hiệu quả, bảo đảm tính chính xác, kịp thời, thân thiện với người dùng và có sức lan tỏa nhất định trong xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn không ít Cổng TTĐT hoạt động mang tính hình thức; nội dung thông tin chưa đa dạng, cập nhật, chưa phát huy được hết các tính năng truyền thông. Trước thực tế đó, từ bình diện lý thuyết, bài viết tập trung phân tích, làm rõ các khái niệm liên quan và yêu cầu đặt ra về chất lượng thông tin của Cổng TTĐT các trường đại học, góp phần giúp nhà trường thực hiện tốt hoạt động truyền thông, nâng cao hình ảnh, khẳng định thương hiệu trong kỷ nguyên số.
Giải pháp nâng cao năng lực đội ngũ công chức cấp xã ở tỉnh Hà Tĩnh hiện nay
Giải pháp nâng cao năng lực đội ngũ công chức cấp xã ở tỉnh Hà Tĩnh hiện nay
Cuộc cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, sáp nhập đơn vị hành chính các cấp, vận hành chính quyền địa phương 2 cấp ở nước ta đang được triển khai mạnh mẽ theo quan điểm bảo đảm “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Cuộc cách mạng này đòi hỏi sự quyết tâm, đồng thuận rất cao và cũng đặt ra những thách thức to lớn cho đội ngũ công chức nói chung và công chức cấp xã nói riêng ở tỉnh Hà Tĩnh. Bài viết phân tích một số vấn đề đặt ra, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ công chức cấp xã, góp phần vận hành thông suốt hiệu quả chính quyền địa phương 2 cấp ở tỉnh Hà Tĩnh thời gian tới.
llcttt1994dientu@gmail.com
024.38348033
Bình luận