Quan điểm của Đảng về xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong Văn kiện Đại hội XIII
Quyền lực nhà nước và kiểm soát quyền lực nhà nước là những vấn đề trung tâm trong đời sống chính trị của mỗi quốc gia. Quyền lực nhà nước luôn mang tính hai mặt, một mặt là yếu tố không thể thiếu để tổ chức và quản lý xã hội, mặt khác nó luôn tiềm ẩn nguy cơ bị tha hóa dẫn đến sự chuyên quyền, độc đoán, đi ngược lại với lợi ích của nhân dân vốn là chủ thể của quyền lực nhà nước. Nhận thức điều đó, Đại hội XIII của Đảng trên cơ sở đánh giá thực trạng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, đã đề ra những quan điểm mang tính định hướng xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, bao gồm: cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong do các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp kiểm soát lẫn nhau; cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài do các chủ thể không phải là Nhà nước thực hiện, mà quan trọng nhất là vai trò kiểm tra, giám sát của nhân dân.
1. Đánh giá thực trạng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
Trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta đưa ra nhận định về kết quả đạt được trong thực hiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước: “Cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng rõ hơn và có chuyển biến tích cực”(1). Tuy nhiên, cơ chế kiểm soát quyền lực trong bộ máy nhà nước mặc dù đã được thiết lập nhưng chưa thể hiện đầy đủ tinh thần được ghi nhận trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (Bổ sung, phát triển năm 2011) cũng như trong Hiến pháp năm 2013 là có sự kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện; chức năng, nhiệm vụ, phân cấp, phân quyền chưa thật rõ ràng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động còn hạn chế; “cơ chế kiểm soát quyền lực trong và Nhà nước chưa đầy đủ, đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả chưa cao”(2).
Thực tiễn cho thấy, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các các cơ quan nhà nước thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp mặc dù đã được thiết lập, nhưng vẫn còn những bất cập ở tầm vĩ mô. Cơ chế kiểm soát quyền lực của Quốc hội đối với cơ quan hành pháp và tư pháp mới chỉ được thiết lập, mà chưa có cơ chế kiểm soát quyền lực ngược lại của hai cơ quan này đối với Quốc hội. Việc thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội chưa thật đúng tính chất, còn dàn trải, chưa tập trung vào những vấn đề lớn của các cơ quan nhà nước; trong quá trình thực hiện quyền giám sát tối cao, Quốc hội hiếm khi đưa ra quyết định về việc bãi bỏ một phần hay toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật của các đối tượng mà mình giám sát. Việc kiểm soát từ bên ngoài của các cơ quan Đảng, của nhân dân, của các tổ chức chính trị - xã hội, của truyền thông, báo chí mặc dù ngày càng được chú trọng, nhưng vẫn chưa thường xuyên, chưa hiệu quả vì thể chế, cơ chế của sự kiểm soát bên ngoài vẫn còn nhiều điểm bất hợp lý, chậm được sửa đổi. Các thiết chế kiểm soát độc lập như Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước, cơ chế bảo vệ Hiến pháp cũng còn nhiều nội dung phải được tiếp tục hoàn thiện trước yêu cầu của tình hình mới.
2. Nội dung quan điểm của Đảng về xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
Một là, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước.
Để bảo đảm kiểm soát quyền lực nhà nước, nội dung quan trọng là phải tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Theo Văn kiện Đại hội XIII, cần xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, đảm bảo quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước; phân định rõ chức năng, quyền hạn của từng cơ quan, tổ chức, khắc phục tình trạng chồng chéo, trùng lắp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan, tổ chức; “Đẩy mạnh cơ chế phân cấp, phân quyền, bảo đảm quản lý thống nhất, hiệu lực, hiệu quả hoạt động; đồng thời phát huy tính chủ động, sáng tạo, đề cao tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành gắn với cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả”(3).
Để thực hiện tốt cơ chế kiểm soát quyền lực với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, phải tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm để Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất; đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng và hiểu quả hoạt động, phát huy dân chủ, pháp quyền, trong thực hiện chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao. Đồng thời, hoàn thiện cơ chế giám sát, lấy phiếu, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn.
Để kiểm soát quyền lực nhà nước về hành pháp của Chính phủ. Theo Văn kiện Đại hội XIII, cần tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; phát huy đầy đủ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội; đẩy mạnh và hoàn thiện cơ chế phân cấp, phân quyền, ủy quyền, bảo đảm quản lý thống nhất, hiệu lực, hiệu quả hoạt động; đồng thời phát huy tính chủ động, sáng tạo, đề cao tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành gắn với cơ chế kiểm soát quyền lực. Đây có thể được xem là biện pháp kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước từ gốc, ngăn chặn sự tùy tiện, lạm quyền của cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước.
Để kiểm soát quyền lực bằng Hiến pháp, hệ thống pháp luật và chế độ tư pháp nhằm bảo đảm cho các tổ chức, cá nhân hoạt động theo đúng các chế định của Hiến pháp và pháp luật. Theo Văn kiện Đại hội XIII, hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân; cần tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động và uy tín của tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân; gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với tổ chức thi hành pháp luật, nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật.
Đối với việc kiểm soát quyền lực đối với cán bộ, công chức. Theo Văn kiện Đại hội XIII, cần phải tăng cường kỷ luật, kỷ cương và có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, bị xử kỷ luật, không còn uy tín với nhân dân; cần có “Quy định rõ và đề cao trách nhiệm người đứng đầu; có cơ chế khuyến khích, khơi dậy tinh thần cống hiến vì đất nước, tạo động lực và áp lực để mọi cán bộ, công chức, viên chức hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, tận tụy phục vụ nhân dân; có cơ chế bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung”(4); thực hiện kiên trì, kiên quyết, có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; đẩy mạnh công tác chọn lọc, quy hoạch, đào tạo các thế hệ cán bộ, công chức có đức, có tài, có bản lĩnh chính trị dựa trên cơ chế cạnh tranh về tuyển dụng, chế độ đãi ngộ, đề bạt và đánh giá công bằng.
Hai là, hoàn thiện cơ chế để các thiết chế thực hiện kiểm soát quyền lực bên ngoài bộ máy nhà nước.
Kiểm soát quyền lực từ bên ngoài nhà nước được hiểu là sự kiểm soát của các thiết chế không mang tính quyền lực nhà nước. Các thiết chế này nhận sự ủy quyền của nhân dân, là sự tập hợp ý chí, nguyện vọng của nhân dân, hoạt động trên các tôn chỉ, điều lệ của tổ chức. Trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, việc phát huy vai trò của các thiết chế kiểm soát quyền lực bên ngoài bộ máy nhà nước bao gồm các chủ thể sau:
Thứ nhất, tăng cường kiểm soát quyền lực của Đảng đối với Nhà nước.
Nâng cao năng lực thể chế hóa quan điểm của Đảng về kiểm soát quyền lực nhà nước trong hoạt động xây dựng pháp luật. Đảng kiểm soát quyền lực đối với Nhà nước thể hiện ở việc ban hành chủ trương, chính sách để Nhà nước cụ thể hóa bằng các quy định của pháp luật. Hoạt động xây dựng pháp luật phải thể chế hóa phải kịp thời, đồng bộ; chương trình xây dựng pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà nước phải bảo đảm tính khả thi, phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng về kiểm soát quyền lực nhà nước và phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Quán triệt quan điểm trên, Đảng cần phải tăng cường lãnh đạo Quốc hội, Chính phủ thể chế hóa và thực hiện có hiệu quả Cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng; chú trọng lãnh đạo, đổi mới, nâng cao chất lượng lập pháp, cải cách hành chính, cải cách tư pháp trên cơ sở đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực bằng hệ thống pháp luật. Do vậy, cần sớm hoàn thiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về kinh tế - xã hội, về kiểm tra, giám sát và phòng, chống tham nhũng, lãng phí, nhất là các quy định về kiểm soát quyền lực, trách nhiệm người đứng đầu, trách nhiệm giải trình, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch. Đồng thời, tiếp tục nghiên cứu, luận chứng rõ căn cứ khoa học và pháp lý để hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp như là một thiết chế chuyên trách kiểm soát quyền lực nhà nước.
Phát huy vai trò của Đảng cẩm quyền trong hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước. Phát huy vai trò và năng lực kiểm tra, giám sát của Ủy ban kiểm tra các cấp đối với đảng viên, nhất là các đảng viên là cán bộ lãnh đạo quản lý trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao; kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những biểu hiện lệch lạc trong thực hiện quy định Điều lệ Đảng, các quy chế, quy định của Đảng. Các tổ chức đảng có thẩm quyền phải xử lý nghiêm minh, kịp thời và công khai đối với những đảng viên, nhất là đảng viên giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý trong cơ quan nhà nước có hành vi vi phạm pháp luật. Quán triệt và thống nhất thực hiện tốt quy định về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, chống chạy chức, chạy quyền, “Kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong từng khâu của công tác cán bộ, nhất là đối với người đứng đầu cấp ủy đồng thời là thủ trưởng cơ quan đơn vị, chủ tịch ủy ban nhân dân. Giữ vững kỷ luật, kỷ cương; tăng cường kiểm tra, giám sát, chống chạy chức, chạy quyền”(5); xử lý nghiêm minh, đồng bộ kỷ luật đảng, kỷ luật hành chính và xử lý bằng pháp luật đối với cán bộ có vi phạm, kể cả khi đã chuyển công tác hoặc nghỉ hưu.
Thứ hai, phát huy vai trò của nhân dân với tư cách là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước trong kiểm soát quyền lực nhà nước.
Kiểm soát quyền lực nhà nước giữa nhân dân - chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước, đối với Nhà nước - chủ thể quản lý. Đây là mối quan hệ kiểm soát quyền lực của người chủ đối với Nhà nước. Vì vậy, Đại hội XIII của Đảng xác định cần tiếp tục thể chế hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013, đảm bảo tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân và thực hiện đúng đắn, có hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ cơ sở.
Thực tiễn chỉ ra rằng, chỉ có phân định một cách thực chất, giao quyền một cách rõ ràng những nhiệm vụ quyền hạn gì cho Nhà nước, còn những gì nhân dân thực thi quyền lực nhà nước một cách trực tiếp hoặc thông qua tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp của mình thì nhân dân mới thực hiện được quyền kiểm soát quyền lực nhà nước có hiệu quả. Đồng thời, với vai trò kiểm soát quyền lực của nhân dân, cần phải “Phát huy tính tích cực chính trị - xã hội, trí tuệ, quyền và trách nhiệm của nhân dân tham gia… xây dựng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa…, xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức”(6). Thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám giát, dân thụ hưởng”. Đặc biệt, hoàn thiện và cụ thể hóa cơ chế nhân dân thực hiện được quyền bãi nhiệm và miễn nhiệm những người do mình bầu ra khi họ không còn xứng đáng.
Thứ ba, tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước gắn với việc phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Quyền lực nhà nước được kiểm soát từ bên ngoài thông qua các hình thức nhân dân tham gia tất cả các khâu của quá trình ra quyết định, giám sát quá trình thực hiện; quy định và thực hiện giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cùng với nhân dân góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Đây là phương thức kiểm soát có hiệu lực, hiệu quả. Do đó, cần quan tâm hơn đến phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài, nhất là kiểm soát của Mặt trận Tổ quốc, các thành viên của Mặt trận Tổ quốc.
Kiểm soát quyền lực nhà nước bằng việc thực hiện vai trò làm chủ, sự giám sát của nhân dân một cách trực tiếp hoặc thông qua Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức nhân dân. Cũng như đối với tổ chức đảng và đảng viên, các cơ quan, tổ chức nhà nước và các cá nhân nắm giữ các trách nhiệm trong bộ máy nhà nước phải chịu sự giám sát, kiểm soát của nhân dân. Theo các quy định của pháp luật, người dân có quyền kiểm soát, giám sát, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của mình đối với các cơ quan, tổ chức và các cán bộ, công chức, viên chức nhà nước trong việc thi hành công vụ. Vì vậy, trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta xác định cần thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên, tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước và “Phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí”(7).
Thứ tư, phát huy vai trò của các cơ quan truyền thông trong kiểm soát quyền lực nhà nước.
Tuyền thông được xác định là một phương thức quan trọng đối với việc thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước. Các cơ quan truyền thông đại chúng vừa là chủ thể, vừa là phương tiện kiểm soát quyền lực nhà nước. Truyền thông đại chúng giúp nhân dân kiểm tra, giám sát hoạt động các cơ quan công quyền, quá trình hoạch định chính sách của nhà nước. Nhờ truyền thông mà người dân có thể vạch trần, phê phán các hoạt động sai trái của cán bộ, công chức, viên chức tại các cơ quan nhà nước. Xuất phát từ vai trò quan trọng của truyền thông, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh cần phải: “Phát huy vai trò, trách nhiệm của…, các cơ quan truyền thông, báo chí trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí”(8).
Có thể nói, ở nước ta chưa bao giờ các cơ quan truyền thông, báo chí lại phát triển mạnh mẽ và có vai trò to lớn trong kiểm soát quyền lực nhà nước như hiện nay. Thông qua truyền thông những tiêu cực được vạch trần, phê phán, như: cửa quyền, sách nhiễu, tham nhũng, lãng phí, quan liêu và các biểu hiện tiêu cực khác, là ép buộc các cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước phải khắc phục, chấn chỉnh, sửa chữa.
Trong thời gian qua, mặc dù đạt được nhiều kết quả quan trọng và có chuyển biến tích cực trong nhận thức cũng như thực thi về cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước chưa hoàn thiện đầy đủ, đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Đó là lý do, cơ sở để Đại hội XIII của Đảng có những bổ sung những quan điểm quan trọng về cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ta trong tình hình mới. Là sự bổ sung rất quan trọng về lý luận xây dựng và thực tiễn hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta trong giai đoạn hiện nay và thời kỳ tiếp theo./.
__________________________________
(1), (4), (5), (6), (7), (8) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQG Sự thật, T.I, tr.72, 280, 243, 173-174, 196, 196.
(2), (3) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Sđd, T.II, tr.217, 147.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Mạnh Bình (2012), “Hoàn thiện cơ chế pháp lý giám sát xã hội đối với việc thực thi quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay”, Nxb. CTQG Sự thật, Hà Nội.
2. Phùng Hữu Phú, Tạ Ngọc Tấn, Vũ Văn Hiền…, Những điểm mới trong các văn kiện Đại hội XIII của Đảng, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2021.
3. Tạ Ngọc Tấn, Phạm Văn Đức (ch.b.), Phùng Hữu Phú..., Một số vấn đề chính trị và pháp luật đặt ra trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2020.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông số tháng 10/2021
Bài liên quan
- Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
- Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- Những đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với sự phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người trong thời kỳ đổi mới
- Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Nhà lãnh đạo lỗi lạc, trọn đời vì nước, vì dân
- Tính nhân văn của Đề cương về văn hóa Việt Nam - động lực xây dựng, phát triển văn hóa đất nước bền vững trong thời đại Hồ Chí Minh
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 3 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Mấy vấn đề cơ chế tài chính đáp ứng phục vụ nhiệm vụ chiến lược của Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay
Học viện Báo chí và Tuyên truyền (Học viện) là đơn vị sự nghiệp công lập, có chức năng đào tạo đại học, sau đại học các ngành lý luận chính trị, báo chí, truyền thông, kinh tế, xây dựng Đảng, quản lý nhà nước, quản lý xã hội…, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ các cấp. Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, Học viện cần có cơ chế tài chính phù hợp nhằm huy động tối đa nguồn lực tài chính và phân phối, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, tạo động lực thúc đẩy hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Trong những năm qua, thực hiện cơ chế tài chính ở Học viện đã có những chuyển biến tích cực, các nguồn thu đảm bảo chi, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của Học viện. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu nguồn lực tài chính cho chiến lược phát triển giai đoạn mới của Học viện, công tác thực hiện cơ chế quản lý tài chính cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện.
Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Chiều 31/10, tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo sư, Tiến sỹ Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có buổi trao đổi một số nội dung về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc với các học viên Lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng đối với cán bộ quy hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV (Lớp 3).
Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
Phát triển nguồn nhân lực không những góp phần đẩy mạnh phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng mà còn góp phần đảm bảo phúc lợi cho người lao động. Vì thế, trong quá trình hội nhập, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đầu tư phát triển nguồn nhân lực – yếu tố then chốt để Việt Nam đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển toàn diện, nhanh và bền vững. Nhận thức rõ vai trò, vị trí quan trọng của nguồn nhân lực, Đảng bộ tỉnh Bến Tre đã có những chủ trương đúng đắn, phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương và đã đạt được những kết quả tích cực đối với phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Song, bên cạnh những thành tựu, vẫn con những hạn chế nhất định, vì vậy, cần xây dựng hệ thống giải pháp đồng bộ nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng yếu tố quyết định thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo lợi thế cạnh tranh của tỉnh hiện nay trong thời gian tới.
Những đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với sự phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người trong thời kỳ đổi mới
Những đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với sự phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người trong thời kỳ đổi mới
Trong suốt cuộc đời và sự nghiệp của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có những đóng góp sâu sắc đối với sự phát triển lý luận của Đảng về quyền con người. Những quan điểm của Tổng Bí thư sẽ tiếp tục là nguồn cảm hứng và định hướng quan trọng cho các hoạt động về quyền con người trong thời kỳ mới.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Nhà lãnh đạo lỗi lạc, trọn đời vì nước, vì dân
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Nhà lãnh đạo lỗi lạc, trọn đời vì nước, vì dân
Theo thông tin từ Hội đồng chuyên môn bảo vệ sức khỏe cán bộ Trung ương, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, sau thời gian lâm bệnh, mặc dù được Đảng, Nhà nước, tập thể các giáo sư, bác sĩ tận tình cứu chữa, gia đình hết lòng chăm sóc, nhưng do tuổi cao, bệnh nặng, Đồng chí đã từ trần lúc 13 giờ 38 phút, ngày 19-7-2024, tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Hưởng thọ 80 tuổi. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết: “Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Nhà lãnh đạo lỗi lạc, trọn đời vì nước, vì dân” của Đại tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
Bình luận