Quốc dân Đại hội Tân Trào thể hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
Trước hết, khi ngược trở lại lịch sử, cơ sở pháp lý cho một Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân có mầm mống ngay từ những ngày đầu Nguyễn Ái Quốc hoạt động cách mạng ở nước ngoài. Vào ngày 18.1.1919 tại Hội nghị ở Véc-xây (Pháp) các nước đế quốc tham gia chiến tranh thế giới lần thứ nhất họp nhằm chia lại thị trường thế giới cho các nước thắng trận (Mỹ, Anh, Pháp), nhân danh nhóm người yêu nước Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã gửi đến Hội nghị bản “Yêu sách của nhân dân An Nam”. Trong đó, Người yêu cầu rất rõ một số điểm mang tính pháp lý như: “Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu; xóa bỏ hoàn toàn các tòa án đặc biệt dùng làm công cụ để để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam”(1). Cũng trong thời gian này, Nguyễn Ái Quốc đã công bố tác phẩm “Việt Nam yêu cầu ca”, trong đó Người đưa ra bản yêu sách tám điều, nêu lên những nhu cầu bức xúc của nhân dân An Nam lúc bấy giờ. Điều thứ bảy nêu rõ “Bảy xin hiến pháp ban hành/Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”(2). Câu ca nói trên thể hiện tư tưởng hiện đại sau này: Nhà nước pháp quyền. Ở đây pháp quyền được nâng lên tới mức như “thần linh” để chỉ đạo “trăm điều” của cuộc sống của người dân một nước độc lập.
Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc cho xuất bản ở Pari cuốn “Bản án chế độ thực dân Pháp”, tố cáo những tội ác tày trời của những nhà cầm quyền ở xứ Đông Dương. Toàn bộ tác phẩm này phản bác lại những ý tưởng cao cả được nêu trong “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” của Đại cách mạng Pháp năm 1789 làm nền tảng cho bản Hiến pháp 1791 của Cộng hòa Pháp, mà nhân loại coi là mẫu mực với những nguyên tắc cao cả “Tự do, Bình đẳng, Bác ái”. Nguyễn Ái Quốc đã phanh phui kiểu pháp quyền - pháp trị thực dân vô pháp vô thiên với nhận thức đúng đắn về dân chủ.
Đầu năm 1930, Nguyễn Ái Quốc trở về Hồng Kông, chủ trì thống nhất 3 tổ chức đảng trong nước để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc thảo đã nêu “Làm tư bản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”; “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến”; “Dựng ra Chính phủ công nông binh(3). Ngày 10.5.1941, sau một thời gian về nước, Nguyễn Ái Quốc triệu tập Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8. Hội nghị đã nhất trí với đề xuất của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải quyết vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi được”(4). Ngày 19.5.1941, Mặt trận Việt Minh được thành lập, tuyên bố đánh đuổi Nhật, Pháp, xây dựng một nước Việt Nam độc lập và tự do, thành lập Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.
Như vậy, từ Chính cương vắn tắt của Đảng đề ra năm 1930 và Chương trình của Mặt trận Việt Minh năm 1941 đã có sự tiến triển lớn trong tư tưởng xây dựng Nhà nước. Trong quan niệm của mình về một chế độ nhà nước và pháp quyền dân chủ thích hợp với đất nước và con người Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã đề ra tư tưởng xây dựng chính quyền “công nông binh” của “dân chúng số nhiều” thời kỳ trước đã được Hồ Chí Minh chuyển thành quan điểm chính quyền của toàn dân. Điều này thể hiện trong bức thư “Kính các đồng bào” (ngày 6.6.1941) khi thành lập Mặt trận Việt Minh: “Muốn đánh đổ Pháp Nhật, ta chỉ cần một điều: Toàn dân đoàn kết”; “Đoàn kết thống nhất đánh đuổi Pháp, Nhật”(5). Trong phiên họp đầu tiên của Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Ngày 2.3.1946) Bác Hồ kêu gọi: “Đại đoàn kết để kháng chiến và kiến quốc”. Tư tưởng xây dựng Nhà nước pháp quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày càng được định hình rõ nét, nhất là từ sau khi Người vượt biên giới Việt - Trung về nước năm 1941. Sau khi về nước một thời gian và nhất là sau khi Mặt trận Việt Minh được thành lập (19.5.1941), Chủ tịch Hồ Chí Minh dứt khoát định hướng cho chính thể Nhà nước, dân tộc Việt Nam là thể chế Cộng hòa Dân chủ.
Sau này, cùng với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chuẩn bị và tổ chức nhân dân tiến hành khởi nghĩa từng phần tiến tới Tổng khởi nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trực tiếp chỉ đạo xây dựng từng bước “chính quyền nhân dân”. Đó là chính quyền của toàn dân, dựa vào lực lượng đoàn kết chiến đấu của Mặt trận Việt Minh để từng bước giành chính quyền từ tay phát xít Nhật. Theo chủ trương trên, chính quyền cách mạng được xây dựng trải qua các bước như sau:
Bước 1. Ở những thôn, xã, tổng, huyện, châu mà do quân giải phóng làm chủ và kiểm soát được thường xuyên thì Ủy ban nhân dân cách mạng, do các giới đồng bào của Hội Cứu quốc cử lên thay hẳn bộ máy cai trị của Nhật, Pháp làm chủ chính quyền. Thực chất và danh nghĩa đó là chính quyền nhân dân địa phương và địa bàn ngày càng được mở rộng. Chính quyền nhân dân thi hành 10 chính sách của Mặt trận Việt Minh. Ủy ban nhân dân cách mạng căn cứ vào 10 chính sách đó để xây dựng, ban hành các quy tắc của mình. Bước 2. Từ tháng 3.1945, cuộc khởi nghĩa từng phần giành thắng lợi ở nhiều nơi, nhất là các vùng nông thôn, miền núi. Chiến khu giải phóng được hình thành, mở rộng ở các tỉnh Cao - Bắc - Lạng; Hà - Tuyên - Thái. Hình thức chính quyền dân chủ trực tiếp tiến dần lên dân chủ đại diện. Đại hội nhân dân trở thành Đại hội đại biểu toàn dân và cử ra Ủy ban nhân dân thay mặt mình làm việc quản lý thường xuyên và chịu trách nhiệm trước Đại hội đại biểu. Vào tháng 6.1945, sáu tỉnh ở Việt Bắc hình thành Khu giải phóng Việt Bắc có Ủy ban nhân dân lâm thời của Khu do Mặt trận Việt Minh cử ra. Bước 3. Vào tháng 10.1944, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy rõ sự sụp đổ của của phát xít Đức - Nhật, Người nghĩ ngay đến việc triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc. Người đã viết “Thư gửi đồng bào toàn quốc”, trong đó có đoạn ghi: “...chúng ta trước phải có một cái cơ cấu đại biểu cho sự chân thành đoàn kết và hành động nhất trí của toàn thể quốc dân ta. Mà cơ cấu ấy thì phải do một cuộc toàn quốc đại biểu Đại hội gồm tất cả các đảng phái cách mệnh và các đoàn thể ái quốc trong nước bầu cử ra. Một cơ cấu như thế mới đủ lực lượng và oai tín, trong lãnh đạo công việc cứu quốc, kiến quốc, ngoài thì giao thiệp với các hữu bang”(6).
Với tất cả những gì mà Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh chuẩn bị trong suốt 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước và những cụ thể hóa vào cách mạng nước nhà từ khi Bác Hồ về nước đã làm cơ sở vững chắc cho chính thể của Nước Việt Nam Dân chủ, Cộng hòa. Quốc dân đại hội Tân Trào là một bước hiện thực hóa chính thể này trước khi Cách mạng Tháng Tám thành công với Bản Tuyên ngôn độc lập lịch sử “khai sinh” ra Nhà nước kiểu mới - Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Quốc dân Đại hội Tân trào có ý nghĩa là một Quốc hội lâm thời, hay một tiền Quốc hội bởi vì cách mạng chưa thành công. Quốc dân Đại hội Tân Trào là đại hội tạo căn cứ pháp lý cho sự ra đời chế độ cộng hòa dân chủ của nước ta, cho một Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khi cách mạng chưa thành công. Đại hội Tân Trào đã thông qua Chương trình 10 điểm, như một Hiến pháp lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Quốc dân Đại hội Tân Trào tuy chỉ có hơn 60 đại biểu, song Đại hội đã tiêu biểu cho toàn thể đồng bào Việt Nam, bao gồm; các đại biểu Bắc, Trung, Nam; kiều bào ở nước ngoài; các đảng phái chính trị; các đoàn thể cứu quốc; các dân tộc, các tôn giáo. Đại hội đã nhất trí thông qua Lệnh khởi nghĩa và 10 chính sách lớn để Chính phủ lâm thời thực thi. Đại hội đã cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam (sau này là được cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa). Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chí Minh, Ủy ban đã lãnh đạo, chỉ đạo cuộc Tổng khởi nghĩa thành công, giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và xây dựng chính quyền và các lực lượng ở các cấp. Khi quân Đồng Minh vào nước ta thì chính quyền nhân dân đã được thành lập trên phạm vi cả nước, với hệ thống hoàn chỉnh từ Trung ương đến tỉnh, huyện, xã. Chính phủ lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch đã có tư cách pháp nhân, là người đại diện hợp pháp và chân chính duy nhất của nước Việt Nam đứng ra lãnh đạo, quản lý đất nước, giao thiệp với quân Đồng Minh trong việc giải giáp quân Nhật và có đối sách thích hợp với các đảng phái khác. Rõ ràng nội dung và cách làm của Đại hội chứa đựng nội dung, hình thức của một tiền Quốc hội, tạo ra cơ sở pháp lý cách mạng đầu tiên cho ra đời một chế độ mới ở nước ta: Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nó bắt nguồn từ tư tưởng dân quyền, pháp quyền của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong quá trình tìm đường cứu nước từ những năm đầu thế kỷ XX.
Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945 đã thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Lần đầu tiên trong lịch sử cận - hiện đại của thế giới, một nước thuộc địa đã giành được độc lập và tự do với Chính phủ lâm thời do Quốc dân Đại hội cử ra. Tư tưởng pháp quyền của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh xuyên suốt cả quá trình phát triển của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ta. Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời vào ngày 3.9.1945, ngoài những nhiệm vụ cấp bách của đất nước lúc bấy giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra sự cần thiết phải tổ chức Tổng tuyển cử để bầu ra Quốc hội chính thức và cử ra Chính phủ của toàn dân; đồng thời lập ra Ủy ban dự thảo Hiến pháp do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì. Bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước ta năm 1946 do Ủy ban dự thảo ra và đã được Quốc hội thông qua mang tinh thần dân chủ nhân dân rất đầy đủ và cho đến nay vẫn là mẫu mực. Cơ sở pháp lý của bản Hiến pháp này chính là ý tưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh từ những ngày Người bôn ba khắp thế giới để tìm đường cứu nước để hiện thực hóa một bước trong Quốc dân đại hội Tân Trào lịch sử - tiền đề để từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân hiện nay./.
__________________________________
(1), (2) Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Nxb. CTQG, T.1, tr.435, 438.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội, T2, tr.2.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội, T7, tr.108.
(5) (6) Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Nxb. CTQG, T.3, tr.198, 505.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Xây dựng Đảng điện tử ngày 14.06.2021
Bài liên quan
- Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay
- Nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao dân trí
- Giá trị và sức sống trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân
- Nhận thức sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là một cách phòng ngừa sự suy thoái về tư tưởng chính trị
- Từ tư tưởng Hồ Chí Minh về chống “giặc nội xâm” đến cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong thời kỳ đổi mới
Xem nhiều
- 1 Mạch Nguồn số 47: Người gieo mầm xanh
- 2 Mạch Nguồn 46: Chèo làng Khuốc - Tìm về làn điệu tiến Vua
- 3 Hiệp định Pari - thắng lợi có ý nghĩa chiến lược dẫn đến đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
- 4 Các yếu tố tác động đến sự hình thành dư luận xã hội
- 5 Đại hội đại biểu Hội Cựu sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền nhiệm kỳ 2024 – 2029
- 6 Hội nghị phát động phong trào thi đua đặc biệt “Thi đua lập thành tích chào mừng kỷ niệm 75 năm truyền thống Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh” (1949-2024)
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Mô hình Hội đồng trường đại học trên thế giới và những khó khăn khi áp dụng tại Việt Nam
Giáo dục đại học Việt Nam đang từng bước hội nhập sâu rộng nhằm thích ứng hơn với sự thay đổi nhanh chóng của thời đại. Trong bối cảnh đó, chủ trương của Đảng và Nhà nước về tự chủ đại học được coi là chính sách ưu tiên hàng đầu, phù hợp với sự phát triển của hệ thống giáo dục trên thế giới. Trong khi Hội đồng trường (HĐT) đại học là một thiết chế rất phổ biến ở các quốc gia phương Tây, việc áp dụng mô hình này ở Việt Nam vẫn còn gặp nhiều khó khăn dù nước ta đã có những quy định khá cụ thể trong luật. Bài viết nhằm tìm hiểu mô hình HĐT đại học ở một số quốc gia trên thế giới và chỉ ra những khó khăn đối với các trường đại học ở Việt Nam khi thực hiện mô hình quản trị mới này.
Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay
Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay
Xuất phát từ vai trò, vị thế, sứ mệnh lãnh đạo giai cấp và dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam, tiên phong là “thuộc tính” hàng đầu của người đảng viên chân chính. Yêu cầu phát triển của cách mạng nước ta hiện nay đòi hỏi sự nêu gương, tiên phong của mỗi đảng viên phải trở thành ý thức tự giác cao độ. Trên cơ sở phân tích quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về trách nhiệm nêu gương và thực trạng vấn đề nêu gương của cán bộ, đảng viên hiện nay, tác giả đề xuất nội dung và giải pháp thực hiện nhằm đưa phương thức nêu gương trở thành văn hóa của Đảng, để Đảng mãi mãi đồng hành và xứng đáng là lực lượng tiên phong lãnh đạo toàn dân tộc.
Nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao dân trí
Nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao dân trí
Chịu ảnh hưởng rất lớn từ tấm gương hiếu học của người cha, từ mảnh đất quê hương được mệnh danh là “đất văn vật, chốn thi thư”, từ quan điểm “mở trí khôn cho dân”, “khai dân trí” của các bậc tiền bối, với tầm hiểu biết và sự trải nghiệm của một danh nhân văn hóa thế giới, một nhà giáo dục lỗi lạc, Hồ Chí Minh trong quá trình hoạt động cách mạng đã hình thành nên hệ thống quan điểm phong phú và toàn diện về nâng cao dân trí, từ mục tiêu, điều kiện, chủ thể, đối tượng đến nội dung và biện pháp nâng cao dân trí. Là sản phẩm của một trí tuệ trác việt và trái tim nhân ái bao la, từng quan điểm, luận điểm trong di sản Hồ Chí Minh về nâng cao dân trí cho đến nay vẫn giữ nguyên tính thời sự và sức hấp dẫn bởi những nét đặc sắc, sáng tạo riêng có.
Giá trị và sức sống trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân
Giá trị và sức sống trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vai trò của nhân dân, quan tâm, chăm lo đời sống nhân dân và phát huy sức mạnh của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng. Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn. Trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước hiện nay cũng như mai sau, tư tưởng đó vẫn có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, mãi trường tồn cùng dân tộc.
Nhận thức sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là một cách phòng ngừa sự suy thoái về tư tưởng chính trị
Nhận thức sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là một cách phòng ngừa sự suy thoái về tư tưởng chính trị
Chủ tịch Hồ Chí Minh là trường hợp hiện hữu của lịch sử khi đã “trở thành huyền thoại ngay từ khi còn sống” và thời gian càng lùi xa, sức sống và giá trị trong tư tưởng của Người càng tỏa sáng.
Bình luận