Tác động của mạng xã hội đến lối sống của sinh viên các trường đại học khu vực Hà Nội
Một vài con số qua thực tế
Hiện nay, mạng xã hội không phải một cụm từ xa lạ với mỗi chúng ta, nhất là đối với sinh viên, mạng xã hội đã trở thành một phần tất yếu của cuộc sống. Mạng xã hội như một luồng gió mới đầy những sáng tạo và bất ngờ thú vị, nó góp phần thay đổi không chỉ trong phong cách sống hàng ngày của bộ phận công chúng này. Với những tính năng đa dạng, nguồn thông tin phong phú, mạng xã hội cho phép người dùng tiếp nhận, chia sẻ và chọn lọc thông tin một cách có hiệu quả, vượt qua trở ngại về không gian và thời gian, vượt qua khoảng cách giữa các thế hệ. Mạng xã hội, giúp nâng cao vai trò của mỗi công dân trong việc tạo lập quan hệ và tự tổ chức xoay quanh những mối quan tâm chung trong những cộng đồng thúc đẩy sự liên kết các tổ chức xã hội. Do chức năng đa dạng và sự gia tăng ngày càng nhanh số lượng thành viên, mạng xã hội đã có tác động làm thay đổi nhiều thói quen cũ và hình thành những biểu hiện mới của tư duy, lối sống, văn hóa… ở sinh viên - một bộ phận chiếm số lượng lớn trong số những người sử dụng.
Kết quả khảo sát tại 5 trường Đại học ở Hà Nội (Đại học Bách Khoa, Đại học FPT, Học viện Ngân Hàng, Đại học Luật, Học viện Báo chí Tuyên truyền) cho thấy, 100% số sinh viên được khảo sát đều sử dụng mạng xã hội, có đến 73,75% cho biết, việc đầu tiên khi họ truy cập Internet là sử dụng mạng xã hội, với tần suất trung bình 2h/ngày.
Một bộ phận sinh viên đã rất khôn ngoan khi tận dụng tối đa nguồn tài nguyên vô hạn từ các mạng xã hội này để đề cao tên tuổi bản thân, đầu tư kinh doanh và kiếm được không ít lợi nhuận từ các mạng xã hội. Chính những danh từ như “Hot Face”,“Vlogger”, “Streamer”... xuất hiện và cũng bắt nguồn từ đây. Bên cạnh đó, không ít các hành động đẹp bắt nguồn từ mạng xã hội, như các trang fanpage cộng đồng nhằm kêu gọi sự ủng hộ giúp đỡ, gây quỹ giúp đỡ bà con gặp khó khăn hay các fanpage kêu gọi cứu trợ bảo tồn thiên nhiên, động vật hoang dã... đã thu hút phần lớn người dân tham gia và ủng hộ. Điển hình như trận lũ lịch sử ở miền Trung vừa qua, chính sức mạnh của cộng đồng mạng đã kêu gọi, quyên góp và giúp đỡ cho người dân nơi đây.
Có thể nói, sinh viên hiện nay rất biết việc sử dụng mạng xã hội để gia tăng lượng tri thức, đồng thời cũng là nơi để gắn kết cộng đồng và sẻ chia những niềm vui của những người có cùng quan điểm, thông cảm và giúp đỡ lẫn nhau. Ngoài những mặt tích cực trên mạng xã hội cũng có những tiêu cực về sự kết nối lan truyền cộng đồng trên mạng xã hội. Bởi chính mạng xã hội đã nâng tầm cho những nhân vật có ảnh hưởng tiêu cực đến giới trẻ như bộ phận “giang hồ mạng”. Các trào lưu khoe thân, hay tự hành hạ mình, trào lưu bắt nạt tập thể... để “câu like”, nổi tiếng; điều này đã làm tha hóa đời sống của một bộ phận sinh viên.
Mạng xã hội còn mang lại những hậu quả khó lường, đó chính là hiện tượng “fake news”- hành động tung tin giả để gây rối trật tự. Nguyên do là một số sinh viên chưa có nhận thức sâu sắc, muốn nổi tiếng “nhanh” trên mạng xã hội tạo nên. Hơn nữa, một lượng lớn thông tin không có nguồn gốc chính thống, chưa được kiểm duyệt, nhằm mục đích nói xấu, bôi nhọ người khác, hoặc kích động, phản động… làm xôn xao dư luận, gây mất an toàn xã hội.
Hệ luỵ của hiện tượng “nghiện online” khiến năng suất lao động giảm, học tập sao nhãng, sức khỏe không tốt (giảm thị lực, mất ngủ, tinh thần mệt mỏi…). Bên cạnh đó, việc phát tán thông tin từ mạng xã hội rất nhanh và dễ dàng đã tạo môi trường để những kẻ xấu lợi dụng, gây nguy hại đến tư tưởng, tinh thần của người dùng mạng xã hội. Những tác hại tiêu cực từ Internet và mạng xã hội, đã phần nào làm băng hoại các giá trị đạo đức, văn hóa truyền thống, ảnh hưởng mạnh mẽ đến lối sống của một bộ phận sinh viên hiện nay.
Một số giải pháp trước mắt
Thứ nhất, tăng cường quản lý, giáo dục từ gia đình và nhà trường. Để có thể quản lý, giáo dục, hướng dẫn việc sử dụng mạng xã hội cho sinh viên hướng đến những hành vi và lối sống tốt đẹp, có ích cho bản thân và cộng đồng, đầu tiên, nền tảng đạo đức, lối sống của gia đình, ảnh hưởng của môi trường sống, trình độ nhận thức về văn hóa xã hội của người lớn… là những nhân tố quan trọng giúp giới trẻ sử dụng mạng xã hội một cách tích cực. Từ phía các bậc cha mẹ, thầy cô cũng phải cần có sự hiểu biết về mạng xã hội, cần biết sử dụng mạng xã hội với những tiện ích của nó cho công việc, cho giải trí lành mạnh, không nên phê phán bừa bãi hay chỉ lên án những tiêu cực của mạng xã hội mà cấm đoán giới trẻ. Từ phía nhà trường cũng cần có những fanpage thú vị nhằm tạo sân chơi trên mạng xã hội lành mạnh và mang tính định hướng cho sinh viên. Những trang này phải do nhà trường trực tiếp đứng ra điều hành và kiểm duyệt tin.
Thứ hai, nâng cao tính định hướng của truyền thông. Tại Việt Nam, mạng xã hội đã sở hữu một số lượng thành viên khổng lồ mà chủ chốt là sinh viên, điều này không chỉ ảnh hưởng đến thị trường công chúng của báo chí truyền thống mà trách nhiệm của các cơ quan quản lý và cơ quan báo chí càng nặng thêm.
Thực tế hiện nay, những người tham gia vào diễn đàn mạng xã hội không phải ai cũng có kiến thức, trình độ và văn hóa nhất định. Một khi diễn đàn mạng xã hội chưa trung thực, hoặc “sạch” theo đúng nghĩa thì nhóm công chúng là sinh viên rất dễ bị hoang mang, kích động. Để nhóm công chúng sinh viên có những nhận thức đúng đắn, không hiểu sai, bị kẻ xấu lợi dụng, báo chí truyền thống phải đứng ra làm “quan tòa” phân xử, giúp định hướng thông tin cho sinh viên trong các cuộc tranh luận trên mạng xã hội.
Thêm vào đó, cần nâng cao nghiệp vụ của phóng viên, nhà báo khi tham gia mạng xã hội. Họ cần hiểu rõ nhu cầu và những mối quan tâm hàng đầu của công chúng nói chung và nhóm sinh viên nói riêng. Từ đó, cung cấp những nội dung thông tin mang tính định hướng cho nhóm đối tượng này.
Thứ ba, xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý cho mạng xã hội. Cần kiên quyết xây dựng khung pháp lý và thi hành một cách chuẩn mực về tiêu chuẩn thông tin trên MXH, loại trừ bằng được những trường hợp lan truyền “tin giả”. Việc xây dựng khung pháp lý cho các trang tin của MXH không chỉ bảo vệ giá trị cho báo chí chính danh, mà còn thanh lọc môi trường truyền thông, giảm thiểu tình trạng nhiễu tin tức như hiện nay. Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý cũng cần phải có những quy định rõ ràng về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và nội dung thông tin trên mạng, chế tài xử phạt những hành vi chia sẻ thông tin sai sự thật trên MXH, gây xôn xao dư luận. Kiên quyết loại bỏ những trang mạng xã hội, trang web gây nhiễu loạn dư luận xã hội, đề cao trách nhiệm khi tham gia mạng xã hội.
Không thể phủ nhận những mặt tích cực mà mạng xã hội đã mang lại, vì nó giúp thế giới “phẳng hơn, nhỏ hơn, gần hơn”. Qua đó sinh viên nhận biết, tiếp thu, nâng cao được tầm hiểu biết, tri thức, kiến thức. Có lẽ đây là một đặc trưng quan trọng của xã hội hiện đại – xã hội thông tin mà mạng xã hội chỉ là một trong những công cụ. Trong xã hội thông tin này, nếu sinh viên biết cách nắm vững những công cụ hữu ích, sẽ vững bước hội nhập vào thế giới toàn cầu. Suy cho cùng, mỗi cá nhân đều có quyền và điều kiện để lựa chọn cộng đồng sống cho mình. Sống ảo hay sống thực, bạn ảo hay bạn thực, gia đình ảo hay gia đình thực,... hoàn toàn phụ thuộc vào nhận thức của cá nhân./.
_______________________
Bài đăng trên Tạp chí Người làm báo điện tử ngày 12.01.2021
Lê Thị Hà Phương
Nguồn: http://nguoilambao.vn
Bài liên quan
- Sự thay đổi thói quen, nhu cầu tiếp nhận công tin của công chúng phát thanh đô thị và khuyến nghị với các kênh phát thanh
- Truyền thông về cấm thuốc lá điện tử trên báo chí Việt Nam hiện nay
- Trẻ tự kỷ trên báo chí: Từ hình ảnh “nạn nhân” đến người hùng - Một nghiên cứu phân tích khung truyền thông
- Tương tác của công chúng trên Báo điện tử VnExpress.net hiện nay, thực trạng và một số giải pháp
- Diễn ngôn truyền thông về “Vành đai, Con đường”: So sánh giữa Trung Quốc và Đông Nam Á
Xem nhiều
-
1
Vai trò của lòng biết ơn trong truyền thông giáo dục tại các trường học: Từ góc độ lý thuyết
-
2
Giáo dục liêm chính cho đội ngũ cán bộ, công chức nhằm phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay
-
3
Một số lý thuyết vận dụng nghiên cứu nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí
-
4
Thị trường xuất bản phẩm Việt Nam - Thực trạng và xu hướng
-
5
Xây dựng khung đạo đức và quản trị trí tuệ nhân tạo (AI) trong truyền thông chính sách tại Việt Nam
-
6
Nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí của sinh viên hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi hiện nay
Bài viết phân tích vai trò của các giá trị văn hóa trong phát triển kinh tế ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS & MN) của Việt Nam hiện nay. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0), việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa không chỉ là trách nhiệm về di sản mà còn là cơ hội để thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững. Bài viết đưa ra những vấn đề lý luận, thực tiễn và đề xuất một số giải pháp chính sách nhằm gắn kết hiệu quả giữa phát triển kinh tế và bảo tồn các giá trị văn hóa vùng DTTS & MN.
Sự thay đổi thói quen, nhu cầu tiếp nhận công tin của công chúng phát thanh đô thị và khuyến nghị với các kênh phát thanh
Sự thay đổi thói quen, nhu cầu tiếp nhận công tin của công chúng phát thanh đô thị và khuyến nghị với các kênh phát thanh
Nghiên cứu này phân tích những thay đổi trong thói quen, nhu cầu tiếp nhận thông tin của công chúng phát thanh đô thị Việt Nam trong bối cảnh số hóa, tập trung vào ba biến số cốt lõi: thời điểm nghe (giờ vàng), thiết bị nghe và nội dung mong muốn. Dựa trên khảo sát 798 người tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh cùng các phỏng vấn định tính, kết quả cho thấy hành vi nghe phát thanh hiện nay đang chuyển dịch mạnh mẽ từ mô hình tuyến tính sang mô hình linh hoạt, cá nhân hóa. Hai khung giờ 6-9h sáng và 17-22h tối là “giờ vàng” gắn với nhịp sống đô thị, song hành với sự lên ngôi của điện thoại thông minh (43,1%) và podcast/audio phát lại (35,5%), phản ánh xu hướng nghe theo yêu cầu (on-demand) ngày càng phổ biến. Đặc biệt, nhu cầu nội dung thể hiện sự phân tầng rõ rệt, trong đó, Thời sự - Chính trị và Âm nhạc - Giải trí vẫn là nội dung được yêu thích trên sóng phát thanh.
Truyền thông về cấm thuốc lá điện tử trên báo chí Việt Nam hiện nay
Truyền thông về cấm thuốc lá điện tử trên báo chí Việt Nam hiện nay
Bài viết phân tích hoạt động truyền thông về chính sách cấm thuốc lá điện tử trên báo chí Việt Nam trong giai đoạn đầu năm 2025. Thời điểm Nghị quyết 173/2024/QH15 chính thức có hiệu lực. Thông qua khảo sát các bài viết đăng trên các báo điện tử (Tuổi Trẻ, VnExpress, Thanh Niên, Sức khỏe & Đời sống, Dân trí, VietnamNet, VOV, Công an nhân dân), về hai nhóm chủ đề: (1) thực trạng sử dụng và buôn bán thuốc lá điện tử; (2) thông tin và giải thích chính sách cấm, cho thấy, báo chí có vai trò quan trọng trong việc thông tin phản ánh thực trạng, phổ biến nội dung lệnh cấm, góp phần định hướng dư luận xã hội… Tuy nhiên, quá trình thông tin vẫn tồn tại nhiều hạn chế. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng truyền thông chính sách, góp phần thực thi lệnh cấm hiệu quả, bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
Trẻ tự kỷ trên báo chí: Từ hình ảnh “nạn nhân” đến người hùng - Một nghiên cứu phân tích khung truyền thông
Trẻ tự kỷ trên báo chí: Từ hình ảnh “nạn nhân” đến người hùng - Một nghiên cứu phân tích khung truyền thông
Trong những năm gần đây, tại Việt Nam, hình ảnh trẻ tự kỷ xuất hiện thường xuyên trên báo chí. Không chỉ được khắc họa dưới góc nhìn “nạn nhân” - những cá nhân thiệt thòi, yếu thế, cần sự bảo vệ, trẻ tự kỷ còn được truyền thông ở hình ảnh “người hùng” - những cá nhân giàu nghị lực, tài năng, trở thành nguồn cảm hứng cho cộng đồng. Bài nghiên cứu này vận dụng phương pháp phân tích khung truyền thông (framing analysis) để làm rõ thực trạng truyền thông về hình ảnh trẻ tự kỷ trên báo chí Việt Nam, từ đó, đánh giá tác động đối với nhận thức xã hội, hành vi cộng đồng và chính sách hỗ trợ trẻ tự kỷ ở nước ta hiện nay.
Tương tác của công chúng trên Báo điện tử VnExpress.net hiện nay, thực trạng và một số giải pháp
Tương tác của công chúng trên Báo điện tử VnExpress.net hiện nay, thực trạng và một số giải pháp
Trong kỷ nguyên truyền thông số, sự tương tác của công chúng đã trở thành yếu tố then chốt khẳng định sức hút và uy tín của báo mạng điện tử. Với vị thế là tờ báo tiếng Việt có lượng truy cập lớn nhất(1), VnExpress không chỉ dẫn đầu về tốc độ cập nhật mà còn tiên phong trong việc mở rộng không gian đối thoại, trao đổi đa chiều với độc giả. Những bình luận, phản hồi và chia sẻ từ công chúng đã và đang góp phần làm nên bản sắc, đồng thời khẳng định vị thế của VnExpress trong đời sống báo chí hiện nay.
llcttt1994dientu@gmail.com
024.38348033
Bình luận