Trẻ tự kỷ trên báo chí: Từ hình ảnh “nạn nhân” đến người hùng - Một nghiên cứu phân tích khung truyền thông
1. Đặt vấn đề
Trong bối cảnh truyền thông đại chúng có vai trò quan trọng trong định hướng dư luận, góp phần thay đổi thái độ, hành vi xã hội, thì việc báo chí phản ánh về trẻ tự kỷ mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Tại Việt Nam, hình ảnh trẻ tự kỷ thường xuyên xuất hiện trên báo chí. Đó là những đứa trẻ gặp nhiều thiệt thòi, khó khăn, cần được bảo vệ. Bên cạnh đó, báo chí cũng phản ánh một thế giới khác – những trẻ tự kỷ giàu nghị lực, tài năng, truyền cảm hứng. Hai hình ảnh này tồn tại song song. Chính sự đan xen này đặt ra nhiều câu hỏi nghiên cứu: Việc báo chí sử dụng hai khung trên phản ánh điều gì về cách nhìn nhận của xã hội đối với trẻ tự kỷ? Những khung hình ảnh này tác động ra sao đến nhận thức và hành vi của cộng đồng, đến chính sách xã hội và cả cuộc sống của chính các gia đình có trẻ tự kỷ? Liệu cách tiếp cận “nạn nhân” có vô tình duy trì định kiến, trong khi khung “người hùng” đôi khi lý tưởng hóa hiện thực, có thể khiến phần đông trẻ tự kỷ bị quên đi những nhu cầu cơ bản và thực tế như: được can thiệp sớm, hỗ trợ giáo dục hòa nhập, chăm sóc y tế phù hợp và đồng hành trong cuộc sống hàng ngày?
Xuất phát từ thực tế đó, việc nghiên cứu khung truyền thông về hình ảnh trẻ tự kỷ trên báo chí Việt Nam là cần thiết. Kết quả không chỉ giúp nhận diện thực trạng báo chí đang định hình dư luận như thế nào, mà còn gợi mở giải pháp để báo chí truyền thông theo hướng nhân văn, cân bằng và góp phần thúc đẩy quá trình hòa nhập xã hội cho trẻ tự kỷ.
2. Quan niệm về tự kỷ, trẻ tự kỷ
Hiệp hội tâm thần Hoa Kỳ xác định: “Tự kỷ (hay còn gọi là rối loạn phổ tự kỷ), (Autism Spectrum Disorder, viết tắt ASD) “là khuyết tật phát triển suốt đời, đặc trưng bởi những rối loạn trong hai nhóm triệu chứng: khiếm khuyết sự tương tác và giao tiếp xã hội, sự hạn chế và lặp đi lặp lại các ham thích và hành vi”(1). “Tự kỷ là một tập hợp các rối loạn phát triển lan tỏa ở mức độ khác nhau từ nhẹ đến nặng, khởi phát sớm từ khi trẻ trước 3 tuổi và diễn biến kéo dài. Biểu hiện chung của bệnh tự kỷ bao gồm những khiếm khuyết trong 3 lĩnh vực là kém tương tác xã hội, kém giao tiếp và hành vi bất thường. Bên cạnh đó, trẻ thường có rối loạn cảm giác. Nhiều trẻ tự kỷ có kèm theo tăng động và trí tuệ kém”(2).
Điều 1, Luật trẻ em 2016 Việt Nam quy định, “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”(3). Như vậy, trẻ tự kỷ được xác định là những trẻ dưới 16 tuổi bị mắc các rối loạn phát triển lan tỏa, kém tương tác xã hội, kém giao tiếp và hành vi bất thường.
Tại Việt Nam, năm 2025, chưa có số liệu thống kê chính thức toàn quốc về số lượng trẻ tự kỷ, nhưng nhiều nghiên cứu ước tính, có hàng trăm nghìn trẻ đang sống cùng hội chứng này. “Theo số liệu do Tổng cục Thống kê công bố đầu năm 2019, Việt Nam hiện có khoảng 6,2 triệu người khuyết tật từ 2 tuổi trở lên, trong đó khoảng 1 triệu người tự kỷ. Ước tính, cứ 100 trẻ sinh ra thì có một trẻ mắc rối loạn phổ tự kỷ. Trong vòng 15 năm trở lại đây, số lượng trẻ tự kỷ tại Việt Nam đã tăng đáng kể và trở thành một vấn đề xã hội rất đáng lưu tâm. Bức tranh đó càng có thêm những gam màu tối tăm đáng báo động khi tỷ lệ trẻ em mắc chứng này ước tính lên tới 1% số trẻ sinh ra. Số lượng trẻ tự kỷ tăng nhanh, khi chỉ từ năm 2000 đến năm 2007 đã nhân lên tới 50 lần”(4). Cũng theo báo Nhân Dân, “Việt Nam hiện có trên một triệu người tự kỷ và đa số đều bế tắc về tương lai khi không thể tự nuôi sống, thậm chí không thể tự phục vụ chính mình”(5).
Trong bối cảnh số lượng trẻ mắc tự kỷ gia tăng nhanh, cơ sở đào tạo và can thiệp còn thiếu, chi phí chữa trị cao, nhận thức xã hội chưa đầy đủ, cả trẻ tự kỷ và gia đình thường xuyên phải đối diện với định kiến, sự thương hại hoặc thậm chí là sự xa lánh từ cộng đồng (6). Chính vì vậy, báo chí - với vai trò là kênh thông tin chính thống và có sức lan tỏa mạnh mẽ - cần dung hòa giữa phản ánh chân thực những khó khăn, thách thức mà trẻ tự kỷ và gia đình phải đối mặt, với việc kiến tạo hình ảnh tích cực, thúc đẩy sự hòa nhập, công bằng và nhân văn hơn cho trẻ tự kỷ trong đời sống xã hội.
2. Lý thuyết khung truyền thông về hình ảnh trẻ tự kỷ
Trên thế giới, khi nghiên cứu về hình ảnh trẻ tự kỷ trên truyền thông, các nhà nghiên cứu đã chia thành 2 “khung”:
- Khung nạn nhân: nhấn mạnh sự thiệt thòi, đau khổ, cần giúp đỡ.
- Khung người hùng: nhấn mạnh nghị lực, thành tựu, khả năng vượt khó và giá trị truyền cảm hứng.
Nhiều nghiên cứu quốc tế đã chỉ ra rằng, trong một thời gian dài, báo chí thường khắc họa người tự kỷ theo cách tiêu cực, đặc biệt, như những “nạn nhân” hoặc “gánh nặng” của xã hội. Huws và Jones(7), khi phân tích 1.285 bài báo trên báo chí Anh giai đoạn 1999-2008, nhận thấy rằng, “truyền thông thường nhấn mạnh đến gánh nặng mà tự kỷ gây ra cho gia đình và xã hội, đồng thời, hiếm khi để chính người tự kỷ lên tiếng về trải nghiệm của họ”. Một tổng quan gần đây của Mittmann, Schrank, Steiner-Hofbauer, Holzinger và Dürl(8) cũng cho thấy, sự kỳ thị vẫn nổi bật trong báo chí và phim ảnh, khi người tự kỷ thường bị gắn với những hình ảnh định kiến và mô tả phi thực tế.
Goethals, T., Mortelmans, D., Van Hove, G., & Van den Bulck, H. (2020) trong bài I am not your metaphor: Frames and counter-frames in the representation of disability phân tích 2 góc độ: Góc độ 1 ở Khung nạn nhân, tác giả phân tích các bài báo sử dụng hình ảnh người khuyết tật như “helpless” (bất lực), deserving pity” (đáng thương hại), cần hỗ trợ từ thiện. Ở góc độ 2: “khung người hùng”, các tác giả mô tả cách truyền thông thường xuyên kể về “cá nhân vượt khó phi thường, đạt thành tựu ngoài sức tưởng tượng, qua đó, gợi cảm hứng cho người khác(9).
Một số nghiên cứu về văn hóa đại chúng khác cũng đã chỉ ra rằng, bên cạnh những định kiến cũ, cũng có xu hướng xây dựng hình ảnh người tự kỷ theo hướng tích cực hơn, chẳng hạn như nhấn mạnh nghị lực hoặc coi họ là nhân vật truyền cảm hứng(10). Xu hướng này cũng cho thấy, báo chí có vai trò quan trọng trong việc dịch chuyển nhận thức của cộng đồng về trẻ tự kỷ, từ chỗ chỉ xem họ là nạn nhân, dễ bị kỳ thị, thương hại, sang hình ảnh tươi sáng, mang tính nhân văn hơn.
Tóm lại, trên truyền thông quốc tế, hai khung hình ảnh trẻ tự kỷ tồn tại song song; trong đó, khung nạn nhân vẫn phổ biến, “mặc dù cách thể hiện tự kỷ trên truyền thông có sự khác biệt, song sự kỳ thị lại nổi bật nhất trong báo chí và phim ảnh/truyền hình, thường mang sắc thái tiêu cực và gắn với các khuôn mẫu rập khuôn như “thiên tài dị biệt”(11). Đây là những tham chiếu cho nghiên cứu về khung trẻ tự kỷ trên báo chí Việt Nam.
3. Thực trạng khung truyền thông về trẻ tự kỷ trên báo chí Việt Nam
Để làm sáng rõ hình ảnh trẻ tự kỷ trên báo chí từ Lý thuyết đóng khung, nghiên cứu này tập trung vào nguồn dữ liệu là các tác phẩm trên 6 tờ báo mạng điện tử Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Nhân Dân, Dân Trí, VnExpress, Tiền Phong. Đây là những tờ báo có thương hiệu mạnh tại Việt Nam. Số lượng bài viết được tổng hợp bằng phương pháp tìm kiếm qua từ khóa “trẻ tự kỷ” trên các báo; dữ liệu cũ nhất mà tác giả ghi nhận được là ở báo Tuổi Trẻ (năm 2004), dữ liệu mới nhất được ghi nhận vào ngày 15/9/2025. Căn cứ vào Lý thuyết đóng khung, tác giả chia hình ảnh trẻ tự kỷ trên báo chí vào 3 khung: Khung “nạn nhân”, khung “người hùng” và khung khác (những chủ đề khác không liên quan trực tiếp đến “nạn nhân” hay “người hùng”, mà là các tin tức sự kiện, các hoạt động tài trợ, hoạt động nghiên cứu về phổ tự kỷ…). Kết quả cụ thể:
Báo |
Số lượng (tác phẩm) |
Khung nạn nhân |
Khung người hùng |
Khác |
Tuổi Trẻ |
233 |
105 |
67 |
61 |
Thanh Niên |
216 |
97 |
62 |
57 |
Nhân Dân |
230 |
103 |
66 |
61 |
VnExpress |
104 |
47 |
30 |
27 |
Dân Trí |
295 |
132 |
85 |
78 |
Tiền Phong |
230 |
103 |
67 |
60 |
Tổng |
1.308 |
587 |
377 |
344 |
Tỉ lệ |
100% |
44.9% |
28.8% |
26.3% |
(Nguồn: Tác giả tự khảo sát, 25/9/2025)
Khảo sát cho thấy, số lượng tác phẩm báo chí về trẻ tự kỷ trên 6 báo không nhiều. Tỉ lệ bài viết về khung “nạn nhân” cao nhất với 44,9%; khung “người hùng” xếp thứ 2, với 28.8%.
3.1. Khung “nạn nhân”
Thứ nhất, bị bạo lực thể xác, rủi ro nghiêm trọng về tính mạng
Trong báo chí, trẻ tự kỷ thường xuất hiện như những đối tượng dễ bị bạo lực thể xác, một phần do rào cản giao tiếp, phản ứng hành vi khác biệt và sự hạn chế trong khả năng tự vệ. Những vụ việc được phản ánh trên nhiều tờ báo cho thấy, trẻ tự kỷ thường bị bạo lực ở môi trường đáng lẽ an toàn - như cơ sở chăm sóc, trung tâm giáo dục chuyên biệt. Sự thiếu giám sát từ phía cơ quan quản lý giáo dục, chính quyền địa phương và thậm chí cả phụ huynh đã tạo ra những “khoảng trống” để bạo lực xảy ra, từ hành vi đánh đập, lôi kéo tóc, dùng gậy, đến những trường hợp thương tích nghiêm trọng hoặc dẫn đến tử vong.
Báo Dân Trí (13/7/2022) đưa tin về một thiếu niên tự kỷ bị đánh: Vụ thiếu niên tự kỷ bị đánh: Nạn nhân vẫn chưa được giám định thương tích!; báo Tuổi Trẻ thông tin: Cô giáo kéo tóc, đánh đập trẻ tự kỷ là cô thực tập; cơ sở không có giấy phép (1/3/2024); Công an kết luận vụ bảo mẫu kéo tóc, nhét chăn vào miệng... cháu bé tự kỷ ở Đà Nẵng (Tuổi trẻ, 31/10/2024); báo VnExpress phản ánh: Xác minh vụ bảo mẫu tát, bịt miệng trẻ tự kỷ (VnExpress.net, 1/3/2024); báo Tiền Phong thông tin: Vụ phụ huynh tố bảo mẫu bạo hành trẻ tự kỷ: Cơ sở hoạt động không phép (3/3/2024);… hay hàng loạt tin bài của Tuổi Trẻ, Thanh Niên, VnExpress và Tiền Phong từ năm 2004 đến nay phản ánh tình trạng bạo hành trong cơ sở không phép, giáo viên thực tập hay bảo mẫu thiếu chuyên môn khác... đã cho thấy mức độ rủi ro không chỉ dừng ở sang chấn thể xác tức thời, mà còn đe dọa trực tiếp đến tính mạng trẻ, đồng thời đặt ra vấn đề trách nhiệm xã hội trong việc bảo đảm an toàn cho nhóm đối tượng đặc thù.
Thứ hai, tổn thương tinh thần và cô đơn do xã hội kỳ thị
Bạo lực thể xác, kỳ thị hay sự tách biệt khỏi đời sống cộng đồng không chỉ để lại những vết thương trên cơ thể mà còn gây ra chấn thương tâm lý kéo dài cho trẻ tự kỷ. Các biểu hiện như hoảng loạn, sợ đám đông, mất ngủ hoặc giảm niềm tin vào người lớn cho thấy tác động nặng nề đến sự phát triển tâm lý - xã hội của trẻ. Thái độ kỳ thị từ cộng đồng khiến nhiều gia đình phải lựa chọn “giấu con”, hạn chế cho trẻ tham gia các hoạt động xã hội. Điều này vô hình trung làm tăng cảm giác cô đơn và cắt giảm cơ hội phát triển kỹ năng giao tiếp, khiến vòng luẩn quẩn của sự cô lập ngày càng khó phá vỡ.
Báo chí Việt Nam đã phản ánh rõ nét thực trạng này. Thanh Niên có loạt bài như Những đứa trẻ không có mùa hè (11/6/2016) hay Trẻ tự kỷ mơ… hòa nhập (12/5/2021), khắc họa sự thiếu vắng cơ hội vui chơi, học tập bình đẳng. Bài Bức tường cô độc và hy vọng cho trẻ tự kỷ (28/8/2015) mô tả cảm giác bị ngăn cách vô hình giữa trẻ với thế giới bên ngoài, trong khi Có con tự kỷ: Trần ai nuôi dạy (14/12/2020) và “Gánh nặng” trên vai các gia đình có người tự kỷ (27/3/2025) cho thấy gánh nặng tinh thần, tài chính và sự đơn độc mà phụ huynh phải gánh chịu.
Thứ ba, thiếu công bằng trong tiếp cận giáo dục, học hòa nhập
Trong nhiều bài báo, trẻ tự kỷ được phản ánh như những “nạn nhân” của sự thiếu công bằng trong tiếp cận giáo dục - một nhu cầu căn bản nhưng lại chưa được bảo đảm. Thực tế, không ít trường công lập từ chối nhận học sinh tự kỷ với lý do “không đủ điều kiện giảng dạy”, trong khi giáo viên phổ thông hầu như chưa được trang bị kiến thức và kỹ năng chuyên biệt. Ngay cả khi được tiếp nhận, các em vẫn phải học trong chương trình “hòa nhập hình thức”, thiếu sự hỗ trợ cá nhân hóa. Báo chí đã nêu rõ rằng, hệ quả của tình trạng này là trẻ đánh mất “thời kỳ vàng” phát triển ngôn ngữ và kỹ năng xã hội, đồng thời, phụ huynh buộc phải tìm đến các trung tâm tư nhân với chi phí cao nhưng chất lượng không đồng đều (Trần ai tìm nơi dạy trẻ tự kỷ, Tuổi Trẻ, 29/10/2024).
Điều đáng chú ý, nhiều phụ huynh phải tự xoay xở mở lớp, tự mày mò phương pháp can thiệp cho con vì hệ thống công lập gần như bỏ trống. Những tiếng kêu cứu đầy xót xa trên mặt báo như Tại sao nhà trường không nhận con tôi? (Dân Trí, 29/3/2025) hay Nỗi đau của cha mẹ có con tự kỷ (Thanh Niên, 12/10/2010) cho thấy cảm giác bị bỏ rơi của gia đình khi chính sách chưa chạm tới nhu cầu thiết thực. Ngay cả khi có giáo viên, chất lượng đào tạo cũng bị đặt dấu hỏi, như lời phê phán rằng Giảng dạy trẻ tự kỷ: Bằng cấp quan trọng nhưng không biết làm thì chỉ phù phiếm (Thanh Niên, 25/9/2025).
Sự thiếu công bằng này không chỉ khiến trẻ tự kỷ và gia đình chịu thiệt thòi về cơ hội học tập, mà còn làm trầm trọng thêm khoảng cách xã hội, khi những gia đình có điều kiện kinh tế mới có thể tiếp cận dịch vụ tư nhân.
Thứ tư, gặp khó khăn trong thực hiện quyền được bảo vệ, hỗ trợ về mặt pháp lý
Trẻ tự kỷ và gia đình thường gặp rào cản khi ở trong tình huống phải nhờ cậy đến hệ thống pháp luật: khó giám định thương tích do trẻ gặp rối loạn hành vi, khó chứng minh thiệt hại tinh thần bởi nạn nhân trẻ tự kỷ không thể khai báo rõ ràng. Điều này tạo ra tình trạng “bất khả xử lý” hoặc xử lý chậm, khiến hành vi xâm hại khó được truy cứu nghiêm minh. Báo chí đã nêu các vụ việc thể hiện khó khăn trong giám định và khởi tố liên quan nạn nhân tự kỷ, ví dụ: Vụ thiếu niên tự kỷ bị đánh: Nạn nhân vẫn chưa được giám định thương tích! (Dân Trí, 13/7/2022); Vụ thiếu niên tự kỷ bị đánh: Thương tật dưới 11% vẫn có thể khởi tố hình sự (Dân Trí, 23/6/2022); Làm sao hạn chế rủi ro trẻ tự kỷ bị bạo hành (Tuổi Trẻ, 3/3/2024); Sửa luật, tạo chính sách chuyên biệt cho trẻ (Nhân Dân, 28/3/2025);… Những dẫn chứng này cho thấy sự cần thiết phải hoàn thiện luật pháp, quy trình giám định và chính sách hỗ trợ, nhằm bảo đảm trẻ tự kỷ được tiếp cận quyền bảo vệ công bằng và hiệu quả trước pháp luật.
Thứ năm, gia đình nặng gánh, trẻ tự kỷ trở thành “nạn nhân kép”
Một trong những hệ lụy lớn nhất mà báo chí chỉ ra là gánh nặng chăm sóc trẻ tự kỷ đặt nặng lên vai gia đình, kéo theo những ảnh hưởng kinh tế - tâm lý lâu dài. Để lo cho con, nhiều phụ huynh phải bỏ việc, giảm thu nhập hoặc rơi vào cảnh vay nợ. Không ít trường hợp, cha mẹ trở thành “chủ trường bất đắc dĩ” khi buộc phải mở lớp, tự tìm phương pháp can thiệp cho con do thiếu cơ sở công lập phù hợp (Có con tự kỷ: “Chủ trường” bất đắc dĩ, Thanh Niên, 16/12/2020). Một số gia đình thậm chí phải “di cư theo con”, chuyển hẳn chỗ ở để tìm cơ hội trị liệu và giáo dục tốt hơn (Có con tự kỷ: Di cư theo con, Thanh Niên, 15/12/2020). Những hy sinh này phản ánh tình thế bị động, đầy căng thẳng của phụ huynh khi xã hội chưa cung cấp đủ dịch vụ hỗ trợ cho trẻ.
Thứ sáu, thiếu cơ chế bảo đảm trợ cấp xã hội và y tế cho trẻ tự kỷ
Một nghịch lý đáng chú ý là mặc dù trẻ tự kỷ có nhu cầu hỗ trợ y tế, giáo dục và an sinh xã hội lâu dài, nhưng trên thực tế, rất nhiều em lại bị “bỏ quên” trong hệ thống chính sách hiện hành. Khung pháp lý về khuyết tật và trợ cấp chưa theo kịp đặc thù của rối loạn phổ tự kỷ: để được hưởng chế độ, gia đình phải chứng minh dạng khuyết tật rõ rệt về thể chất, trong khi trẻ tự kỷ chủ yếu gặp khó khăn về phát triển nhận thức, giao tiếp, hành vi - những khía cạnh khó lượng hóa và thường không được ghi nhận chính thức. Hệ quả là hàng loạt trẻ và gia đình mất đi nguồn hỗ trợ tài chính cần thiết để duy trì trị liệu, học tập chuyên biệt hay chăm sóc y tế định kỳ.
Báo chí nhiều lần lên tiếng về thực trạng này. Bài Thiệt thòi kép của trẻ tự kỷ trong đại dịch (VnExpress, 2/4/2022) phản ánh nhiều em không được hưởng trợ cấp khẩn cấp dù nhu cầu chăm sóc tăng gấp đôi trong giai đoạn giãn cách. Tăng cường chính sách xác nhận, trợ giúp xã hội đối với trẻ tự kỷ (Dân Trí, 23/12/2023) chỉ rõ bất cập khi thủ tục chứng nhận khuyết tật chưa phản ánh đúng bản chất bệnh lý, khiến phụ huynh “gõ cửa” nhiều cơ quan nhưng vẫn bị từ chối. Tương tự, PGS, TS. Trần Văn Công: Cần nhiều chính sách bảo vệ và nâng cao quyền lợi của trẻ tự kỷ (Nhân Dân, 1/4/2025) nhấn mạnh rằng, việc thiếu bảo hiểm y tế và chính sách can thiệp sớm đã làm chậm quá trình hòa nhập xã hội.
Thứ bảy, bị can thiệp phi khoa học, thiếu kiểm soát chuyên môn
Một nguy cơ lớn đối với trẻ tự kỷ hiện nay là việc bị can thiệp phi khoa học và thiếu kiểm soát chuyên môn tại nhiều cơ sở giáo dục hoặc trung tâm hỗ trợ, gây ra hậu quả trực tiếp đối với trẻ. Chẳng hạn, báo Lao Động ngày 14/12/2020 đăng tin về việc phụ huynh tố cáo bảo mẫu bạo hành trẻ tự kỷ tại một cơ sở giáo dục mầm non ở Đà Nẵng, dẫn đến việc người vi phạm bị xử phạt hành chính, cho thấy tình trạng vi phạm ngay trong môi trường vốn được coi là an toàn cho trẻ. Trước đó, Lao Động ngày 4/11/2019 cũng có bài về Trung tâm Tâm Việt, nơi giáo viên bị tố mắng chửi, đe dọa học sinh thay vì áp dụng phương pháp can thiệp phù hợp, phản ánh rõ sự lạm dụng và biến dạng chức năng của cơ sở giáo dục đặc biệt. Trong khi đó, báo Nhân Dân ngày 2/4/2023 đăng bài Xây dựng tương lai cho trẻ tự kỷ, xác nhận rằng hiện chưa có phương pháp tối ưu được khoa học chứng minh và một số nơi vẫn thử nghiệm theo hướng “kết hợp y học cổ truyền”, cho thấy cách tiếp cận này còn mang tính kinh nghiệm nhiều hơn là dựa trên bằng chứng. Những bài viết như Đồng hành cùng trẻ tự kỷ phát triển toàn diện trên Lao Động (1/4/2022) cũng gián tiếp khẳng định, nếu thiếu những phương pháp bài bản, khoa học và được giám sát, trẻ sẽ dễ bị đặt vào tình trạng can thiệp tùy tiện, thiếu căn cứ, thậm chí nguy hiểm.
Tóm lại, bảy biểu hiện trên khắc họa rất rõ hình ảnh trẻ tự kỷ trong khung “nạn nhân”. Giữa chúng có sự chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau: sự kỳ thị và thiếu chính sách làm tăng rủi ro bị bạo lực và can thiệp sai phương pháp; thiếu trợ cấp và cơ sở giáo dục buộc gia đình phải lựa chọn dịch vụ không đảm bảo; thiếu cơ chế pháp lý làm nạn nhân khó tìm công lý…
3.2. Khung “người hùng”
Thứ nhất, vượt qua nghịch cảnh, truyền cảm hứng
Một trong những cách tiếp cận phổ biến của báo chí Việt Nam là xây dựng hình ảnh trẻ tự kỷ như những “người hùng vượt nghịch cảnh”. Các tác phẩm báo chí thường bắt đầu bằng hoàn cảnh khó khăn, sự kỳ thị hoặc hạn chế về khả năng của trẻ, sau đó nhấn mạnh bước ngoặt khi các em thể hiện được tài năng hay nghị lực phi thường. Chẳng hạn, bài Những đứa trẻ tự kỷ làm nên điều kỳ diệu: Nghề nghiệp đưa con vào đời (Thanh Niên, 08/04/2024) khắc họa hành trình các em được đào tạo nghề, từ chỗ bị coi là “không thể học được”, nay tự tin tham gia lao động, hòa nhập xã hội. Tương tự, Cô bé tự kỷ có IQ cao hơn cả nhà bác học (Thanh Niên, 09/05/2024) nhấn mạnh vào yếu tố bất ngờ - một năng lực trí tuệ vượt trội - tạo sự ngưỡng mộ ở công chúng.
Không chỉ dừng lại ở trí tuệ, báo chí còn khai thác các tài năng nghệ thuật và sáng tạo của trẻ tự kỷ. Bài Trẻ tự kỷ ‘vẽ’ lại niềm tin vào cuộc sống (Dân Trí, 04/07/2023) mô tả việc một em nhỏ dùng tranh vẽ để giao tiếp với thế giới, biến khiếm khuyết ngôn ngữ thành một “ngôn ngữ hội họa”. Tương tự, Cậu bé tự kỷ sau mê vẽ cầu xác lập kỷ lục Việt Nam (Nhân Dân, 26/09/2025) kể lại hành trình Bảo Nam - một em nhỏ tự kỷ - chinh phục kỷ lục với 115 bức tranh vẽ cầu, đồng thời khẳng định em như “đại sứ truyền cảm hứng” cho sự sáng tạo và nỗ lực không ngừng.
Một số bài còn khai thác khả năng vượt qua rào cản xã hội để hòa nhập cộng đồng. Ví dụ, Cửa tiệm hạnh phúc của người tự kỷ (VnExpress, 03/06/2025) giới thiệu mô hình một quán cà phê do người tự kỷ làm việc, nhấn mạnh vào khía cạnh “tự lập” và “tìm thấy chỗ đứng trong xã hội”. Trong khi đó, Chàng trai từng mắc chứng tự kỷ xác lập kỷ lục mới cho bộ môn Rubik 3x3 (Tiền Phong, 26/06/2023) lại tập trung vào sức mạnh ý chí, biến niềm đam mê Rubik thành thành tích khiến cộng đồng ngưỡng mộ.
Thứ hai, tôn vinh tài năng, khả năng đặc biệt của trẻ tự kỷ
Bên cạnh việc khắc họa hành trình vượt khó, một khung phổ biến khác trong báo chí là tôn vinh “tài năng thiên bẩm” của trẻ tự kỷ. Các bài viết thường gắn cho nhân vật những nhãn mác như “thần đồng”, “thiên tài”, “hotboy tự kỷ”… tạo ra hiệu ứng bất ngờ, thán phục và thu hút sự chú ý của công chúng. Chẳng hạn, Cô bé tự kỷ có IQ cao hơn cả nhà bác học (Thanh Niên, 09/05/2023) và Cậu bé tự kỷ theo học Đại học Oxford từ năm 6 tuổi (VnExpress, 24/04/2019) đều khai thác yếu tố trí tuệ vượt trội, coi đó là bằng chứng cho thấy tự kỷ không đồng nghĩa với khiếm khuyết. Trong khi đó, Cậu bé tự kỷ trở thành biên tập viên âm nhạc (VnExpress, 15/03/2022), Ước mơ họa sĩ của những cậu bé tự kỷ (VnExpress, 05/04/2022) hay Trẻ tự kỉ vẫn có thể trở thành nhân tài (Dân Trí, 11/11/2021) lại khai thác góc độ nghệ thuật, âm nhạc và hội họa, coi tài năng là phương thức để trẻ giao tiếp, khẳng định bản thân và hòa nhập cộng đồng.
Thứ ba, có thành tích đáng ghi nhận trong học thuật, trong nghề nghiệp
Nếu như khung “tài năng thiên bẩm” tập trung vào những cá nhân xuất chúng, thì một hướng khác của báo chí là nhấn mạnh đến thành tích học tập, nghề nghiệp của trẻ tự kỷ trong môi trường “bình thường”. Khung này coi sự hòa nhập thành công của các em là bằng chứng cho nhận định: nếu có phương pháp đúng, trẻ tự kỷ vẫn có thể thành công.
Nhiều bài viết cho thấy vai trò quan trọng của gia đình trong hành trình này. Bài Tin con làm được: Vì con mẹ chưa bao giờ bỏ cuộc (Thanh Niên, 05/04/2024) và Cha mẹ cùng con vượt qua ‘tự kỷ’ (Tuổi Trẻ, 25/04/2021) mô tả nghị lực của cha mẹ kiên trì đồng hành, từ đó giúp con thích nghi với môi trường học tập. Hạnh phúc của một bà mẹ khi nhìn con trai tự kỉ bắt đầu biết giao tiếp (Dân Trí, 23/10/2016) hay Cô bé 6 tuổi viết tâm thư bảo vệ anh trai tự kỉ (Dân Trí, 07/11/2016) nhấn mạnh đến những bước tiến nhỏ nhưng có ý nghĩa to lớn trong hòa nhập xã hội và học đường.
Thứ tư, năng lực sáng tạo nghệ thuật và biểu đạt cá nhân
Một khung quan trọng trong truyền thông về trẻ tự kỷ là nhấn mạnh đến năng lực sáng tạo và biểu đạt cá nhân thông qua nghệ thuật. Trong khung này, báo chí thường xem nghệ thuật như một “cửa sổ tâm hồn”, giúp cộng đồng hiểu được thế giới nội tâm của trẻ tự kỷ. Về mặt ngôn ngữ, nhiều bài viết sử dụng các từ miêu tả như “ngây thơ”, “trong sáng”, “khác biệt” để tạo dựng hình ảnh tích cực.
Các ví dụ báo chí cho thấy sự đa dạng trong năng lực biểu đạt nghệ thuật của trẻ: Trẻ tự kỷ học làm xiếc (Tuổi Trẻ, 03/04/2018) và Trẻ tự kỷ thể hiện tài năng (VnExpress, 31/01/2014) phản ánh niềm vui khi trẻ được trình diễn, khẳng định bản thân. Ở lĩnh vực hội họa, 40 tác phẩm hội họa của trẻ tự kỷ trong triển lãm ‘Gặp gỡ tháng 3’ (Thanh Niên, 25/03/2023) hay Triển lãm tranh của 13 trẻ tự kỷ (VnExpress, 14/04/2024) cho thấy xã hội ngày càng công nhận tranh của trẻ không chỉ mang ý nghĩa trị liệu mà còn có giá trị nghệ thuật riêng.
Thứ năm, có đóng góp cho xã hội
Báo chí trong nhiều năm gần đây đã chuyển hướng từ việc mô tả trẻ tự kỷ ở vai trò thụ động, yếu thế sang vai trò “tác nhân thay đổi xã hội”, tạo ra bước chuyển quan trọng trong cách nhìn nhận và đánh giá trẻ tự kỷ khi các em được khắc họa như những nhân vật có khả năng tạo ra ảnh hưởng tích cực đối với cộng đồng. Cách phản ánh này giúp công chúng nhìn nhận trẻ tự kỷ theo hướng tích cực, đồng thời lan tỏa sự đồng cảm và khích lệ xã hội quan tâm hơn đến việc hỗ trợ các em. Ví dụ, bài Ước mơ hoạ sĩ của những cậu bé tự kỷ (VNexpress, 05/04/2022) nhấn mạnh khả năng nghệ thuật của các em, cho thấy trẻ tự kỷ có thể sáng tạo và đóng góp giá trị văn hóa. Bài Chuyện về Trevor Tao (Tuổi Trẻ, 15/04/2015) mô tả nhân vật chủ động vượt qua thách thức cá nhân, khẳng định trẻ tự kỷ có thể dẫn dắt câu chuyện của chính mình và ảnh hưởng tích cực đến người khác. Cửa tiệm hạnh phúc của người tự kỷ (VNexpress, 03/06/2025) thể hiện khả năng kinh doanh và tổ chức, chứng minh trẻ tự kỷ có thể tham gia trực tiếp vào các hoạt động cộng đồng. Các ví dụ này cho thấy báo chí không chỉ phản ánh mà còn kiến tạo vai trò xã hội cho người tự kỷ, từ đối tượng cần bảo vệ trở thành nhân tố tích cực trong cộng đồng.
Thứ sáu, trẻ tự kỷ ở vai trò chủ thể của truyền thông vận động
Một số tác phẩm báo chí không chỉ dừng lại ở việc phản ánh khó khăn, nghị lực của trẻ tự kỷ, mà còn đặt các em vào vai trò như “đại sứ truyền thông”, gương mặt đại diện cho phong trào nâng cao nhận thức xã hội. Trong khung này, hình ảnh trẻ tự kỷ được khai thác để kêu gọi sự quan tâm, vận động nguồn lực hay khuyến khích thay đổi chính sách.
Ví dụ, bài PNJ chung tay thay đổi cái nhìn về trẻ tự kỷ (Dân Trí, 28/02/2023) gắn hình ảnh trẻ tự kỷ với các chiến dịch cộng đồng, qua đó, giúp công chúng thấy rõ hơn nhu cầu hòa nhập của các em. Tương tự, chương trình Cùng lan toả chong chóng góp 700 triệu đồng cho trẻ tự kỷ (Thanh Niên, 03/04/2023) và loạt hoạt động như Nhiều Sao Việt gấp chong chóng, gây quỹ ủng hộ trẻ tự kỷ (Thanh Niên, 24/06/2022) sử dụng hình ảnh trẻ em làm trung tâm cho hoạt động gây quỹ, từ đó lan tỏa sự đồng cảm trong xã hội. Bên cạnh đó, các tác phẩm như Robot giúp trẻ tự kỷ nâng cao kỹ năng xã hội (Thanh Niên, 30/04/2025) hay Trẻ tự kỷ học thêm thuận lợi nhờ công nghệ AI (Thanh Niên, 26/08/2018) còn minh họa cách báo chí trao cho trẻ vai trò “người thụ hưởng công nghệ mới” để nhấn mạnh tính tiến bộ và sự quan tâm của xã hội hiện đại.
Thứ bảy, nghị lực hòa nhập cộng đồng (tương tác xã hội)
Khung này tập trung khắc họa trẻ tự kỷ trong hành trình dài hạn để hòa nhập xã hội, nhấn mạnh sự kiên trì của gia đình và nỗ lực bền bỉ của chính trẻ. Báo chí thường xây dựng câu chuyện theo dạng “hành trình” - từ những khó khăn ban đầu đến từng bước tiến bộ – nhằm tạo kịch tính và khơi gợi sự đồng cảm ở công chúng. Chẳng hạn, bài Những người ‘leo dốc’ cùng trẻ tự kỷ (Tuổi Trẻ, 11/03/2024) mô tả phụ huynh như những người đồng hành không mệt mỏi, trong khi Cậu bé tự kỷ mơ thành người tung bóng số một thế giới (VnExpress, 5/9/2022) kể về nghị lực của trẻ tự kỷ - Khôi Nguyên - một hành trình vượt lên mọi chướng ngại để đạt đến thành công.
4. Thảo luận về tác động của báo chí xây dựng hình ảnh trẻ tự kỷ ở khung “nạn nhân”, “người hùng” và một vài khuyến nghị
4.1. Tác động tích cực
- Thay đổi hình ảnh trẻ tự kỷ trong cộng đồng theo hướng tích cực: Trước đây, công chúng thường mặc định tự kỷ là chỉ khuyết tật, gây ra gánh nặng cho gia đình - xã hội. Báo chí khi chọn khung “người hùng” đã làm “đảo chiều” cách nhìn của nhiều người trong cộng đồng. Do nhấn mạnh những khả năng đặc biệt, nghị lực vượt khó và giá trị tích cực mà trẻ tự kỷ có thể mang lại, báo chí giúp cộng đồng bớt định kiến, thậm chí, hình thành thái độ yêu quý. Cộng đồng dần nhìn trẻ tự kỷ không một chiều - chỉ là người được thương hại, mà còn là các cá nhân có giá trị, có thể cống hiến cho xã hội.
- Tạo động lực và truyền cảm hứng cho gia đình, xã hội: Những tấm gương như Bảo Nam - “họa sĩ nhỏ tuổi đầy nghị lực” với kỷ lục 115 bức tranh vẽ các cây cầu; Khôi Nguyên - “ngôi sao truyền cảm hứng” trong nghệ thuật xiếc nhí, hay Nem (Hà Đình Chi) - “biểu tượng sáng tạo và hòa nhập” qua triển lãm Nem’s Story đã trở thành những “biểu tượng đặc biệt” trong truyền thông. Khi được khắc họa ở khung “người hùng”, các em không chỉ cho thấy khả năng vượt qua khiếm khuyết để khẳng định bản thân mà còn mang đến nguồn cảm hứng mạnh mẽ cho xã hội. Những câu chuyện này giúp cộng đồng tin rằng trẻ tự kỷ hoàn toàn có thể đạt được thành tựu vượt trội, đồng thời, trở thành nguồn cảm hứng, khích lệ các gia đình có con tự kỷ thêm niềm tin vào hành trình hòa nhập và phát triển của con em mình, chủ động cho con tham gia nhiều hoạt động xã hội.
- Định hình chuẩn mực về tính đa dạng và nhân văn: Khi báo chí nhấn mạnh rằng những trẻ tự kỷ có thể xác lập kỷ lục, tổ chức triển lãm, sáng tác nghệ thuật, biểu diễn thể thao… hay thậm chí kể những câu chuyện bình dị hơn, chẳng hạn, những trẻ em tự kỷ đã được đi học trở lại, đã biết giúp mẹ làm việc nhà, biết tự chăm sóc bản thân, hay đi làm, lao động kiếm tiền… đã góp phần khẳng định thông điệp: người tự kỷ cũng có quyền được công nhận như những cá nhân bình thường, thậm chí là cá nhân xuất sắc. Đây chính là cách báo chí định hình và lan tỏa chuẩn mực xã hội mới về sự đa dạng và bao dung.
- Góp phần thúc đẩy chính sách và dịch vụ hỗ trợ: Báo chí không chỉ đưa tin về thành tích, khả năng đặc biệt của trẻ tự kỷ, mà còn nêu các giải pháp, đề xuất, kiến nghị cho các nhà hoạch định chính sách, tổ chức xã hội và cộng đồng về việc quan tâm nhiều hơn đến xây dựng chính sách phù hợp, tạo điều kiện hòa nhập và đảm bảo quyền lợi chính đáng cho trẻ em tự kỷ… Chẳng hạn, đó là các giải pháp đầu tư vào giáo dục hòa nhập, hoạt động trị liệu, tạo môi trường phát triển cho trẻ. Ví dụ, bài Sửa luật, tạo chính sách chuyên biệt cho trẻ (Nhân Dân, 28/3/2025) nêu: “Trên thực tế, trẻ tự kỷ được công nhận là một dạng khuyết tật, nhưng hiện nay vẫn chưa được hưởng đầy đủ quyền lợi và sự hỗ trợ cần thiết từ Nhà nước”, vì vậy, cần “bổ sung trẻ tự kỷ vào nhóm khuyết tật phát triển trong Luật Người khuyết tật. Đây là cơ sở pháp lý để bảo đảm trẻ tự kỷ được hưởng các quyền lợi cụ thể về giáo dục, y tế và an sinh xã hội. Mở rộng phạm vi hỗ trợ của bảo hiểm y tế cho trẻ tự kỷ, bao gồm các dịch vụ trị liệu ngôn ngữ, hành vi và vật lý trị liệu.
4.2. Nguy cơ và hạn chế
- Truyền thông mạnh về khung trẻ tự kỷ là “người hùng” có thể vô tình tạo áp lực ngầm cho cha mẹ trẻ
Việc báo chí đăng tải những câu chuyện truyền cảm hứng về một số trẻ tự kỷ có khả năng vượt trội, một mặt, mang tính tích cực, nhưng mặt khác, có thể dễ đem lại hiệu ứng lý tưởng hóa - tức phóng đại những thành tích cá biệt, từ đó, vô tình đặt ra áp lực ngầm cho cộng đồng cha mẹ và chính những người tự kỷ. Nhiều bậc phụ huynh có thể cảm thấy lo lắng, tự trách nếu con mình không đạt được những thành tích “xuất chúng” như những trẻ tự kỷ trên mặt báo. Thay vì được an ủi, nhiều phụ huynh lại rơi vào tâm trạng căng thẳng và tự trách, làm tăng thêm gánh nặng tinh thần vốn đã rất lớn trong hành trình đồng hành cùng con. Thực tế này đã được đề cập trong nghiên cứu của Dilara Demirpençe Seçinti, Dilan Diş, Zeynep Seda Albayrak và Ezgi Şen(12) cho rằng, “Bên cạnh việc không thể điều chỉnh các hành vi không điển hình của trẻ, việc suy nghĩ về cách thế giới bên ngoài đánh giá những hành vi này làm tăng căng thẳng cho người mẹ. Một nghiên cứu cho thấy tỷ lệ trầm cảm của các bà mẹ có con tự kỷ cao hơn so với dân số nói chung”.
- Phần lớn trẻ tự kỷ không có khả năng đặc biệt nên nếu truyền thông chỉ tập trung vào khía cạnh“người hùng”, có thể làm mờ đi nhu cầu hỗ trợ cho số đông
Khi báo chí lựa chọn khung “người hùng” để nói về trẻ tự kỷ, thường tập trung vào những trường hợp cá biệt với khả năng vượt trội trong nghệ thuật, toán học hay trí nhớ, nên hiệu ứng tạo ra có thể đi ngược lại mục tiêu hỗ trợ cộng đồng. Thực tế, phần lớn trẻ tự kỷ không có năng lực đặc biệt nổi bật. Các em cần đến các dịch vụ can thiệp sớm, hỗ trợ giáo dục hòa nhập, chăm sóc sức khỏe tâm thần và môi trường xã hội thấu hiểu để có thể phát triển bình thường nhất có thể. Tuy nhiên, khi truyền thông liên tục “lý tưởng hóa” một số ít tấm gương hay những trường hợp trẻ tự kỷ hòa nhập được cuộc sống bình thường, công chúng dễ bị cuốn vào hình ảnh “thiên tài tự kỷ” hoặc “người hùng vượt khó”. Hệ quả là thực trạng của đa số - những trẻ cần được hỗ trợ can thiệp sớm, giáo dục chuyên biệt, dịch vụ y tế và cơ hội hòa nhập đời thường - lại dễ bị bỏ quên hoặc có thể bị xem nhẹ. Điều này không chỉ tạo áp lực vô hình lên phụ huynh và chính người tự kỷ, mà còn làm lệch ưu tiên của xã hội trong việc xây dựng chính sách và đầu tư nguồn lực hỗ trợ nhóm đông đảo này. Các tác giả Mittmann, Schrank, Steiner-Hofbauer et al. đã cho rằng, Nghiên cứu tổng quan về cách truyền thông mô tả tự kỷ cho thấy báo chí và phim ảnh thường chọn các trường hợp có khả năng đặc biệt (savantism) làm đại diện, từ đó làm sai lệch nhận thức công chúng và che khuất thực trạng đa số trẻ tự kỷ không có năng lực vượt trội(13).
Như vậy, việc truyền thông tập trung quá nhiều vào hình ảnh “người hùng tự kỷ” không chỉ làm méo mó hình dung của xã hội, mà còn có thể khiến nhu cầu thực sự của số đông - những đứa trẻ cần được hỗ trợ thiết thực hơn là sự tung hô - trở nên mờ nhạt, không được đáp ứng đúng mức.
5. Kết luận và khuyến nghị
Khảo sát trên báo chí Việt Nam, cụ thể là trên báo mạng điện tử, đã cho thấy sự tồn tại hai khung truyền thông về hình ảnh trẻ tự kỷ: khung “nạn nhân” và khung “người hùng”. Với khung “người hùng”, báo chí đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao nhận thức và hành vi xã hội đối với trẻ tự kỷ, tạo cơ hội, điều kiện hòa nhập và thúc đẩy chính sách hỗ trợ cho trẻ tự kỷ. Tuy nhiên, để đảm bảo truyền thông nhân văn và bền vững về trẻ tự kỷ, báo chí cần chú trọng một số điều sau:
Thứ nhất, cần đa dạng hóa khung truyền thông: Báo chí không nên chỉ xây dựng khung “nạn nhân” hay “người hùng”, mà còn chú trọng xây dựng hình ảnh trẻ tự kỷ ở khung là “công dân bình thường”, nhấn mạnh quyền sống, quyền học tập, quyền vui chơi bình đẳng như mọi trẻ em khác.
Thứ hai, cơ quan báo chí cần đào tạo nhà báo kỹ năng khai thác và cung cấp thông tin về trẻ tự kỷ một cách công bằng, cân bằng. Điều này tránh làm người tiếp nhận rơi vào 2 thái cực đối lập: cảm thấy hình ảnh trẻ tự kỷ quá bi lụy, bi quan, hay ngược lại, quá lạc quan.
Thứ ba, khuyến khích người nổi tiếng tham gia truyền thông trên báo chí về bảo vệ trẻ tự kỷ. Người nổi tiếng có thể tạo sức lan tỏa lớn về những thông điệp trẻ tự kỷ, nhưng nhà báo cần định hướng về một phong cách truyền thông nhân văn, trách nhiệm. Cụ thể, tránh khai thác khía cạnh bi kịch hay thương hại, thay vào đó nhấn mạnh tiềm năng, sự nỗ lực và quyền được tôn trọng của trẻ tự kỷ. Đồng thời, khi phỏng vấn hay tường thuật hoạt động của nghệ sĩ, báo chí nên đặt trọng tâm vào giá trị xã hội và thông điệp chuyên môn (ví dụ: can thiệp sớm, giáo dục hòa nhập, chính sách hỗ trợ), thay vì chỉ đưa tin theo hướng “ngôi sao làm từ thiện”. Như vậy, việc kết hợp giữa sức ảnh hưởng của người nổi tiếng và sự định hướng của báo chí sẽ giúp thông điệp bảo vệ trẻ tự kỷ trở nên vừa lan tỏa, vừa đúng đắn.
Thứ tư, Nhà nước và xã hội cùng đồng hành với báo chí. Truyền thông quan trọng, nhưng mới chỉ là một phần để lên tiếng nói bảo vệ quyền và đời sống thể chất, tinh thần lành mạnh cho trẻ tự kỷ. Những giải pháp mà báo chí nêu ra, để trở thành hiện thực, cần được đồng hành của cơ quan chức năng về giáo dục, y tế và các chính sách hỗ trợ khác.
Bằng những cách đó, báo chí Việt Nam có thể trở thành công cụ mạnh mẽ thúc đẩy một xã hội hòa nhập - nơi trẻ tự kỷ không chỉ được cảm thông, yêu thương, mà còn được tôn trọng, được ứng xử, đồng hành như những công dân bình đẳng./.
(1) American Psychiatric Assóciation (2013), Diagnostic and statistical manual of mental disorders 5th edition American Psychiatric Publishing, Arlington, VA, USA: doi. 10.
(2) Vinmec Healthcare System, Tự kỷ ở trẻ em: Nguyên nhân, chẩn đoán và cách điều trị, https://www.vinmec.com /vie/benh/tu-ky-o-tre-em-3232., truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2025.
(3) Quốc Hội (2016), Luật Trẻ em, Luật số 102/2016/QH13.
(4) VietnamPlus (2025), Số lượng trẻ tự kỷ tại Việt Nam đã tăng đáng kể trong 15 năm qua, https://www. vietnamplus.vn/so-luong-tre-tu-ky-tai-viet-nam-da-tang-dang-ke-trong-15-nam-qua-post1023394.vnp?utm_source=chatgpt.com, truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2025.
(5) Nhân Dân (2024), Thắp sáng tương lai cho trẻ tự kỷ, https://nhandan.vn/special/thap-sang-tuong-lai-cho-tre-tu-ky/index.html, truy cập truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2025.
(6) Khanh Thi Loan, Nguyen Lan Anh, Dinh Thi Hai Binh and Mai Thi Lan Anh, Self-stigma among parents of children with autism spectrum disorder in VietNam, Journal of Medical research, 190 E 16 (5)-2025).
(7) Huws, J. C., & Jones, R. S. P. (2010), Missing voices: Representations of autism in British newspapers, 1999–2008. British Journal of Learning Disabilities, 39(2), 98–104. https://onlinelibrary.wiley.com/doi/10.1111/j.1468-3156.2010.00624.x., truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2025.
(8) Mittmann, G., Schrank, B., Steiner-Hofbauer, V., Holzinger, A., & Dürl, M. (2023), Portrayal of autism in mainstream media – A scoping review about representation, stigmatisation and effects on consumers in non-fiction and fiction media, Current Psychology (2024) 43:8008–8017, https://doi.org/10.1007/s12144-023-04959-6., https://link.springer.com/article/10.1007/s12144-023-04959-6, truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2025.
(9) Goethals, T., Mortelmans, D., Van Hove, G., & Van den Bulck, H. (2020), I am not your metaphor: Frames and counter-frames in the representation of disability, Disability & Society, 36(9), 1512–1537. pp. 1520-1521. https://doi.org/10.1080/09687599.2020.1836478,
(10) Belcher, C., & Maich, K. (2014), ASD in popular media: Storied reflections of societal views, Brock Education Journal, 24(2), 97–115. https://memorial.scholaris.ca/server/api/core/bitstreams/05f4fcea-32e2-4882-9236-977dda877257/content, truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2025.
(11) Mittmann, G., Schrank, B., Steiner-Hofbauer, V., Holzinger, A., & Dürl, M. (2023), Portrayal of autism in mainstream media –A scoping review about representation, stigmatisation and effects on consumers in non-fiction and fiction media, Current Psychology, 43(26), 8008–8017. https://doi.org/10.1007/s12144-023-04959-6.
(12) Dilara Demirpençe Seçinti, Dilan Diş, Zeynep Seda Albayrak &
Ezgi Şen (2024), BMC Psychology volume Depression and parental distress among caregivers of autistic children: a serial mediator analysis in caregivers of autistic children, https://bmcpsychology.biomedcentral.com/articles/ 10.1186/s40359-024-01704-x#auth-Ezgi-_en-Aff2, truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2025.
(13) Mittmann, G., Schrank, B., Steiner-Hofbauer, V., Holzinger, A., & Dürl, M. (2023), Portrayal of autism in mainstream media – A scoping review about representation, stigmatisation and effects on consumers in non-fiction and fiction media, Current Psychology, https://doi.org/10.1007/s12144-023-04959-6
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông điện tử
Bài liên quan
- Tương tác của công chúng trên Báo điện tử VnExpress.net hiện nay, thực trạng và một số giải pháp
- Diễn ngôn truyền thông về “Vành đai, Con đường”: So sánh giữa Trung Quốc và Đông Nam Á
- Sửa đổi Luật Báo chí 2016 để bảo đảm tối đa quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân
- Công chúng trả phí tiếp nhận tin tức - xu hướng thế giới và sự phát triển bền vững của kinh tế báo chí ở Việt Nam
- Quản lý tác động của truyền thông đại chúng và dư luận xã hội đến sinh viên đại học hiện nay
Xem nhiều
-
1
Quảng bá di sản văn hóa phi vật thể trên các kênh truyền thông số: Đặc trưng và những yêu cầu đặt ra
-
2
Nhân sinh quan Phật giáo với việc xây dựng lối sống cho học sinh trung học phổ thông ở Việt Nam hiện nay
-
3
Phát triển lực lượng sản xuất chất lượng mới ở Việt Nam hướng tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa
-
4
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thông tin về sách giáo khoa trên báo mạng điện tử Việt Nam
-
5
Tăng cường nguồn lực tài chính cho chuyển đổi xanh ở Việt Nam
-
6
Diễn ngôn truyền thông về “Vành đai, Con đường”: So sánh giữa Trung Quốc và Đông Nam Á
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Một số vấn đề cần chú ý trong xuất bản tạp chí khoa học điện tử ở Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư (cách mạng 4.0) đang tác động mạnh mẽ đến tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội, các tạp chí khoa học cũng cần chuyển đổi số và tăng cường xuất bản trực tuyến nhằm đáp ứng nhu cầu của độc giả. Ở Việt Nam hiện nay, nhiều tạp chí khoa học đã có những bước cải tiến, nâng cao chất lượng cả về nội dung lẫn hình thức, đồng thời xuất bản song song tạp chí điện tử để mở rộng khả năng truyền tải tri thức khoa học. Tuy nhiên, tạp chí khoa học điện tử có những đặc thù khác biệt so với tạp chí khoa học in, đặt ra những yêu cầu mới trong tổ chức, quản lý và xuất bản. Bài viết đề cập đến một số đặc điểm của tạp chí khoa học điện tử, phân tích một số vấn đề cần lưu ý trong quá trình xuất bản nhằm nâng cao chất lượng, vừa phù hợp với xu thế chuyển đổi số, vừa bảo đảm các chuẩn mực khoa học và học thuật.
Trẻ tự kỷ trên báo chí: Từ hình ảnh “nạn nhân” đến người hùng - Một nghiên cứu phân tích khung truyền thông
Trẻ tự kỷ trên báo chí: Từ hình ảnh “nạn nhân” đến người hùng - Một nghiên cứu phân tích khung truyền thông
Trong những năm gần đây, tại Việt Nam, hình ảnh trẻ tự kỷ xuất hiện thường xuyên trên báo chí. Không chỉ được khắc họa dưới góc nhìn “nạn nhân” - những cá nhân thiệt thòi, yếu thế, cần sự bảo vệ, trẻ tự kỷ còn được truyền thông ở hình ảnh “người hùng” - những cá nhân giàu nghị lực, tài năng, trở thành nguồn cảm hứng cho cộng đồng. Bài nghiên cứu này vận dụng phương pháp phân tích khung truyền thông (framing analysis) để làm rõ thực trạng truyền thông về hình ảnh trẻ tự kỷ trên báo chí Việt Nam, từ đó, đánh giá tác động đối với nhận thức xã hội, hành vi cộng đồng và chính sách hỗ trợ trẻ tự kỷ ở nước ta hiện nay.
Tương tác của công chúng trên Báo điện tử VnExpress.net hiện nay, thực trạng và một số giải pháp
Tương tác của công chúng trên Báo điện tử VnExpress.net hiện nay, thực trạng và một số giải pháp
Trong kỷ nguyên truyền thông số, sự tương tác của công chúng đã trở thành yếu tố then chốt khẳng định sức hút và uy tín của báo mạng điện tử. Với vị thế là tờ báo tiếng Việt có lượng truy cập lớn nhất(1), VnExpress không chỉ dẫn đầu về tốc độ cập nhật mà còn tiên phong trong việc mở rộng không gian đối thoại, trao đổi đa chiều với độc giả. Những bình luận, phản hồi và chia sẻ từ công chúng đã và đang góp phần làm nên bản sắc, đồng thời khẳng định vị thế của VnExpress trong đời sống báo chí hiện nay.
Diễn ngôn truyền thông về “Vành đai, Con đường”: So sánh giữa Trung Quốc và Đông Nam Á
Diễn ngôn truyền thông về “Vành đai, Con đường”: So sánh giữa Trung Quốc và Đông Nam Á
Kể từ khi được khởi xướng vào năm 2013, Sáng kiến “Vành đai, Con đường” (BRI) đã trở thành một trong những chủ đề quan trọng trong quan hệ quốc tế và diễn ngôn truyền thông toàn cầu. Nghiên cứu cho thấy, truyền thông Trung Quốc chủ yếu thông qua các kênh chính thống và sự kiện truyền thông được hoạch định để xây dựng một diễn ngôn tích cực, nhất quán, nhấn mạnh các khía cạnh “hợp tác cùng thắng”, “cộng đồng chia sẻ tương lai” và các thành tựu kinh tế vĩ mô. Ngược lại, truyền thông Đông Nam Á thể hiện một bức tranh phức tạp và đa chiều, với thái độ dao động từ ủng hộ đến hoài nghi, dè dặt. Các chủ đề chính bao gồm lợi ích kinh tế cụ thể, tác động xã hội tại địa phương, các vấn đề về chủ quyền, bẫy nợ và sự cân bằng quan hệ với các cường quốc khác. Từ những phân tích này, bài viết đưa ra một số gợi mở chiến lược cho báo chí, truyền thông Việt Nam trong việc xây dựng một diễn ngôn độc lập, cân bằng và hiệu quả về BRI nhằm phục vụ tốt nhất lợi ích quốc gia.
Sửa đổi Luật Báo chí 2016 để bảo đảm tối đa quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân
Sửa đổi Luật Báo chí 2016 để bảo đảm tối đa quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân
Luật Báo chí nhằm mục đích cao nhất là bảo đảm quyền tự do ngôn luận (QTDNL) trên báo chí của công dân. Qua mỗi thời kỳ lịch sử, tình hình chính trị, kinh tế, xã hội có những thay đổi nhất định, báo chí cũng thay đổi theo. Luật Báo chí cũng phải luôn được chỉnh lý cho phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới của báo chí.
Bình luận