Tấm gương Hồ Chí Minh về gắn tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận với đề ra chủ trương, chính sách và sự vận dụng của Đảng ta
1. Hồ Chí Minh - tấm gương mẫu mực về gắn tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận với đề ra đường lối, chính sách
Cuộc đời của Hồ Chí Minh gắn liền với hoạt động thực tiễn. Nghiên cứu, tổng kết thực tiễn từ những cuộc đấu tranh của cách mạng Việt Nam chống thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, Người nhận ra một chân lý: nếu dân tộc mà chưa giành được độc lập, thì vấn đề giai cấp cũng không giải quyết được. Mặc dù rất khâm phục lòng yêu nước và đánh giá cao những cống hiến của các bậc cách mạng tiền bối cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, nhưng từ thực tiễn, Người đã nhận thấy những hạn chế và bế tắc về mục tiêu, đường lối và phương pháp cách mạng của các nhà yêu nước đương thời. Thực tế đó đã thôi thúc Người đi ra nước ngoài để xem cho rõ thực chất của xã hội các nước phương Tây là thế nào. Năm 1911, Nguyễn Tất Thành đã dấn thân vào thực tiễn đầy chông gai và nguy hiểm - đi tìm đường cứu nước.
Trải qua những năm tháng đầy gian truân ở các nước Á, Phi, Mỹ, Âu, làm rất nhiều nghề, phân tích, tổng kết thực tiễn các cuộc cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đi tới khẳng định: đó là các cuộc cách mạng không triệt để, “nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục (tước đoạt - BT) công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp hẵng còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức”(1).
Cũng từ tổng kết thực tiễn, Nguyễn Ái Quốc có đánh giá hết sức khoa học về thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga. Người khẳng định: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”(2). Đây không phải là nhận định cảm tính chủ quan, mà là sự tổng kết thực tiễn đấu tranh của nhân loại mà Nguyễn Ái Quốc đã dày công nghiên cứu.
Tính triệt để hay không triệt để, “đến nơi” hay không “đến nơi” của một cuộc cách mạng - theo Nguyễn Ái Quốc - chính là kết quả của cuộc cách mạng đó có giải phóng cho toàn thể nhân dân lao động hay không, nhân dân lao động có thật sự nắm được chính quyền mới ra đời đó hay không. Theo đó, Người khẳng định, cuộc cách mạng mang tính triệt để nhất và thành công nhất trong thế giới lúc bấy giờ “chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi”(3), vì “ở đó dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam”(4).
Từ tổng kết thực tiễn sự thất bại của các phong trào đấu tranh cách mạng Việt Nam chống Pháp những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc chỉ ra một trong những nguyên nhân là thiếu một lý luận tiên phong dẫn đường. Người dẫn lời của V.I.Lênin “Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng” và “chỉ có một đảng có lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có thể làm tròn được vai trò chiến sĩ tiền phong”(5). Đó chính là cơ sở để Nguyễn Ái Quốc quyết tâm đi tìm cho cách mạng Việt Nam một đường lối giải phóng phù hợp.
Suốt cuộc hành trình gần 10 năm (1911 - 1920), Nguyễn Ái Quốc dày công nghiên cứu rất nhiều công trình lý luận, tác phẩm văn học của các nhà văn lớn, gia nhập các hội như Hội Nghệ thuật và khoa học và Hội Những người bạn của nghệ thuật, nghiên cứu kỹ bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp, tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ…
Năm 1920, đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Nguyễn Ái Quốc tìm thấy chân lý giải phóng cho dân tộc - con đường cách mạng vô sản. Đây là dấu mốc của bước chuyển trong tư tưởng Nguyễn Ái Quốc từ lập trường yêu nước chân chính sang lập trường cách mạng vô sản.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Hồ Chí Minh đã hình thành tư tưởng vĩ đại, có đóng góp to lớn vào lý luận Mác - Lênin. Người đã vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin vào cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam và phong trào đấu tranh ở các nước thuộc địa. Đó là tư tưởng giải phóng dân tộc, độc lập dân tộc là trên hết, trước hết. Người khẳng định: “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”(6).
Đó là kết quả của cả một quá trình nghiên cứu công phu, đầy sáng tạo của Người, thâu thái những tinh hoa tư tưởng của nhân loại trên mọi lĩnh vực và tìm ra điểm tương đồng, hướng tới giải phóng nhân loại. Điều quan trọng trong quan điểm của Hồ Chí Minh là không phải nghiên cứu để tiếp thu một cách máy móc, nguyên xi, mà tiếp thu có chọn lọc, sáng tạo, vận dụng vào thực tiễn cách mạng có hiệu quả.
Với Hồ Chí Minh, không chỉ nghiên cứu, học tập lý luận và dừng lại ở tổng kết, mà phải biến lý luận đó, sự tổng kết đó thành những chủ trương chính sách có hiệu quả. Người là tấm gương tiêu biểu cho việc gắn tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận với định hướng đường lối, chính sách. Sau khi tổng kết thực tiễn sự phát triển của thế giới, tiếp thu lý luận Mác - Lênin, Người chủ trương đưa vào nội dung học tập tại các khóa huấn luyện của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại Quảng Châu gồm: “Lịch sử các cuộc cách mạng, ba quốc tế, các phong trào đấu tranh của các dân tộc thuộc địa, lịch sử Cách mạng tháng Mười Nga, Cách mạng Tân Hợi, cách mạng đang diễn ra ở Trung Quốc với Tam dân chủ nghĩa và Tam đại chính sách”(7), nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ hướng tới thành lập một chính đảng cho cách mạng ở Việt Nam.
Từ tổng kết thực tiễn, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, trong từng giai đoạn cách mạng, Hồ Chí Minh đã đề ra các chủ trương đúng đắn và những chính sách hết sức khoa học, linh hoạt. Chẳng hạn, với chính sách “thêm bạn, bớt thù”, lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, thực hiện nhân nhượng có nguyên tắc, Hồ Chí Minh đã linh hoạt, sáng tạo, khéo léo tìm ra lời giải cho sách lược cách mạng của Việt Nam sau năm 1945 một cách thần kỳ, đưa dân tộc thoát khỏi cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đề ra đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, đánh bại thực dân Pháp tại Điên Biên Phủ năm 1954, đưa miền Bắc tiến lên xây dựng CNXH, tiến tới giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”(8); “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng”(9). Theo đó, để có đường lối, chủ trương, chính sách phù hợp, trước hết phải có chính sách đối với cán bộ. Hồ Chí Minh yêu cầu thực hiện chính sách đối với từng loại cán bộ.
Trong Di chúc, Người căn dặn rất kỹ: “Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong…), Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”(10). Đảng và Chính phủ cần chọn một số chiến sĩ trẻ trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong, ưu tú nhất, cho đi học thêm các ngành, nghề để đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc, là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi CNXH ở nước ta.
Người viết: “Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo”(11); “đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên””(12). Nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hǎng hái, cần cù. Đảng cần có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và vǎn hóa, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.
Như vậy, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chỉ thật sự có hiệu quả khi phục vụ thiết thực việc đề ra đường lối, chủ trương và ban hành chính sách hành động phù hợp thực tiễn.
Đi qua gần 30 quốc gia, vượt qua muôn vàn gian khổ, làm rất nhiều nghề để kiếm sống, với quyết tâm cháy bỏng tự do cho đồng bào mình, độc lập cho Tổ quốc mình; với khối tri thức lý luận khổng lồ, nhất là lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã hình thành đường lối, chính sách phù hợp cho cách mạng Việt Nam. Trong suốt sự nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh gắn chặt việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận với việc đề ra đường lối, chính sách. Đó chính là cơ sở để Đảng ta tiếp tục lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi đến xây dựng thành công CNXH.
2. Sự vận dụng, phát triển sáng tạo của Đảng trong thời kỳ đổi mới
Tính đúng đắn của lý luận chỉ thể hiện khi nó trở thành hiện thực thông qua hoạt động thực tiễn. Ngược lại, tổng kết thực tiễn chỉ có giá trị và ý nghĩa khi những bài học được rút ra từ sự tổng kết đó được chuyển hóa thành tư tưởng, lý luận định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động tổ chức thực tiễn ở giai đoạn tiếp theo, nghĩa là phải gắn chặt việc tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận với việc đề ra đường lối, chính sách.
Vận dụng, phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, hơn 90 năm qua, trong từng giai đoạn lịch sử, Đảng ta đã đề ra đường lối, chính sách phù hợp với yêu cầu cách mạng.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, bên cạnh những thuận lợi có được, công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta gặp muôn vàn khó khăn. Trước tình hình đó, Đảng ta đã có bước đột phá là quyết định đổi mới.
Tại Đại hội VI, Đảng ta nhận định: Thái độ của Đảng ta trong việc đánh giá tình hình là nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật. Theo đó, Đảng ta nhận định: “việc đánh giá tình hình cụ thể về các mặt kinh tế, xã hội của đất nước, đã có nhiều thiếu sót. Do đó, trong mười năm qua, đã phạm nhiều sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế. Do chưa nhận thức đầy đủ rằng thời kỳ quá độ lên củ nghĩa xã hội là một quá trình lịch sử tương đối dài, phải trải qua nhiều chặng đường, và do tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội, muốn bỏ qua những bước đi cần thiết”(13). Trên cơ sở đó, Đại hội nhấn mạnh: “Tư tưởng chỉ đạo của kế hoạch và các chính sách kinh tế là giải phóng mọi năng lực hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ của quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa”(14).
Đến Hội nghị Trung ương 8 Khóa IX, Đảng nhấn mạnh việc “xây dựng những định hướng chính sách nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc (cả những định hướng chính sách chung và những định hướng chính sách đối với các giai cấp, tầng lớp xã hội)”(15).
Báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991 - 2011), Đảng nhấn mạnh: “Hoàn chỉnh hệ thống chính sách bảo đảm cung ứng dịch vụ công cộng thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân. Tiếp tục đổi nới nhận thức trong định hướng chính sách phân phối, chính sách tiền lương, xây dựng hệ thống an sinh xã hội (bảo hiểm, hỗ trợ, ưu đãi xã hội…). Thực hiện chính sách khuyến khích làm giàu chính đáng theo pháp luật, đi đôi với xóa đói, giảm nghèo”(16).
Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: “Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách với phù hợp quy luật khách quan và đặc điểm của Việt Nam, tạo bước đột phá để phát triển”(17), phải “đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp các luận cứ khoa học, lý luận cho việc hoạch định, phát triển đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”(18).
Đại hội XIII của Đảng đã đề ra nhiệm vụ: “Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, hoàn thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Gắn kết tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận với định hướng chính sách”(19).
Với ý chí quyết tâm, nỗ lực, bản lĩnh, sáng tạo, quyết đoán, với sự thường xuyên tổng kết thực tiễn, đổi mới lý luận, Đảng ta đã đề ra đường lối, chính sách phù hợp, lãnh đạo tiến hành công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu to lớn./.
________________________________________________________
(1), (3), (4) Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H., T.2, tr. 296, 304, 304.
(2), (10), (11), (12), (5) Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Sđd, T.15, tr. 387, 616, 617, 612, 48.
(7) Hồ Song (1979), Giáo trình lịch sử Việt Nam, quyển 2, Nxb. Giáo dục, H., T.2, tr. 130.
(8), (9) Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Sđd, T.5, tr. 280, 309.
(13), (14) Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H., T.47, tr. 353-354, 380.
(15) Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, T.62, tr. 100.
(16) Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, T.69, tr. 441-442.
(17), (18) Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H., T.1, tr. 200, 201.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị điện tử ngày 2/12/2023
Bài liên quan
- Hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại trong lòng dân tộc Việt Nam và thế giới
- Tăng cường giáo dục thanh niên theo tư tưởng Hồ Chí Minh
- Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
- Từ tư tưởng của Hồ Chí Minh "Học không bao giờ cùng..." đến nhiệm vụ nghiên cứu, học tập của giảng viên giảng dạy lý luận chính trị hiện nay
- Thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Xem nhiều
- 1 Ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến hoạt động báo chí
- 2 Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
- 3 Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên về học tập tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- 4 Truyền thông về cơ hội phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu khi ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ ở đồng bằng sông Cửu long trên báo chí Việt Nam
- 5 Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
- 6 Quản lý tác động của truyền thông đại chúng và dư luận xã hội đến sinh viên đại học hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Quản lý tác động của truyền thông đại chúng và dư luận xã hội đến sinh viên đại học hiện nay
Truyền thông đại chúng và dư luận xã hội đang tác động ngày càng mạnh mẽ, sâu rộng đến mọi người, nhất là thế hệ trẻ, trong đó có sinh viên các trường đại học trên cả bình diện tích cực và tiêu cực. Thực tế cho thấy, việc tác động của truyền thông đại chúng và dư luận xã hội đến sinh viên có vai trò, ý nghĩa hết sức quan trọng, cấp thiết nhằm tạo tâm lý lành mạnh trong cộng đồng sinh viên, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo của các trường đại học hiện nay. Vì vậy, bài viết làm rõ mối quan hệ giữa truyền thông đại chúng và dư luận xã hội; từ đó phân tích nội dung quản lý về tác động của truyền thông đại chúng và dư luận xã hội đến cộng đồng sinh viên, đưa ra một số yêu cầu giúp quản lý, tạo dựng bầu không khí tâm lý lành mạnh trong cộng đồng sinh viên, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo của các trường đại học trong bối cảnh hiện nay.
Hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại trong lòng dân tộc Việt Nam và thế giới
Hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại trong lòng dân tộc Việt Nam và thế giới
Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài của Đảng và nhân dân Việt Nam, nhà chính trị - nhà văn hoá lớn của thế kỷ XX, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới, người bạn thân thiết của nhân dân các dân tộc đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phấn đấu không mệt mỏi vì mục tiêu, lý tưởng cao đẹp, đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tên tuổi và sự nghiệp vĩ đại của Người gắn liền với lịch sử quang vinh của Đảng và lịch sử đấu tranh cách mạng vẻ vang của dân tộc ta.
Tăng cường giáo dục thanh niên theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Tăng cường giáo dục thanh niên theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh tầm quan trọng chiến lược của công tác giáo dục thanh niên. Người đã chỉ rõ sự cần thiết; nội dung, phương thức giáo dục thanh niên và trách nhiệm của các chủ thể trong công tác này. Bài viết trình bày khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên và đề xuất giải pháp vận dụng tư tưởng của Người vào công tác giáo dục thanh niên Việt Nam góp phần phát huy vai trò của thanh niên trong kỷ nguyên mới của dân tộc.
Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
Ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời vào ngày 2/9/1945, chính quyền cách mạng non trẻ của chúng ta đã phải đương đầu với nạn “thù trong, giặc ngoài”, ở cả 2 miền Nam, Bắc vấn đề về xung đột dân tộc trở thành tâm điểm có nguy cơ gây ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn vong của nhà nước cách mạng non trẻ. Với trí tuệ uyên bác, sự lãnh đạo thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các vấn đề tưởng chừng hết sức phức tạp ấy lại được Người khéo léo giải quyết thành công, đem lại bài học có giá trị cách mạng sâu sắc về công tác dân tộc cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Từ tư tưởng của Hồ Chí Minh "Học không bao giờ cùng..." đến nhiệm vụ nghiên cứu, học tập của giảng viên giảng dạy lý luận chính trị hiện nay
Từ tư tưởng của Hồ Chí Minh "Học không bao giờ cùng..." đến nhiệm vụ nghiên cứu, học tập của giảng viên giảng dạy lý luận chính trị hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của Đảng và dân tộc Việt Nam, là anh hùng giải phóng dân tộc và nhà văn hóa kiệt xuất, Người đã để lại di sản quý báu về tư tưởng, đạo đức, phong cách cho Đảng và Nhân dân ta. Di sản Hồ Chí Minh bao quát rộng lớn các vấn đề của cách mạng Việt Nam, trong đó có tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo. Trong giới hạn của bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến lời dạy của Người trong Thư gửi “Quân nhân học báo” tháng 4/1949: “Học không bao giờ cùng. Học mãi để tiến bộ mãi. Càng tiến bộ, càng thấy càng phải học thêm”(1) là vấn đề có ý nghĩa thời sự đối với việc nghiên cứu, học tập của cán bộ, đảng viên nói chung, giảng viên làm công tác giảng dạy lý luận chính trị nói riêng hiện nay.
Bình luận