Thách thức trong kiến tạo hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam hiện nay
Giá trị văn hóa phản ánh và kết tinh đời sống văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của nhân dân. Qua lịch sử, mỗi dân tộc đều tạo cho mình một hệ giá trị văn hóa. “Đó là hệ thống những đánh giá mang tính chủ quan của con người về tự nhiên, xã hội và tư duy theo hướng những cái gì là cần, là tốt, là hay, là đẹp, nói cách khác đó chính là những cái được con người cho là chân, thiện, mỹ, giúp khẳng định và nâng cao bản chất người”(1).Hệ giá trị văn hóa có vai trò định hướng, chi phối, điều tiết mục tiêu và phương thức hành động của con người. Hệ giá trị này không nhất thành bất biến mà có thay đổi theo thời gian, thời đại, vừa bị loại trừ những yếu tố cũ, lạc hậu; vừa được bồi đắp những giá trị mới.
Trải qua trường kỳ lịch sử, hệ giá trị văn hóa dân tộc và chuẩn mực con người Việt Nam đã được định hình, tôi luyện, trở thành “sợi chỉ đỏ”, “kim chỉ nam” soi đường, dẫn lối để dân tộc đi đến những thắng lợi. Bàn về hệ giá trị văn hóa, con người Việt Nam truyền thống, nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định những phẩm chất đã trở thành giá trị của người Việt Nam như: “Yêu nước, Cần cù, Anh hùng, Sáng tạo, Lạc quan, Thương người, Vì nghĩa”(2). “Chẳng thấy nơi nào trên thế giới một dân tộc cần cù như vậy. Khả năng chịu đựng của họ rất cao, ít kêu ca về nỗi đau đớn của mình”. “Có đầu óc thực tế có khi đến lạ lùng, quyết định chiều hướng tâm hồn của họ”. “Người Việt có chất nghệ sỹ nhiều hơn khoa học. Họ nhạy cảm hơn là có lý tính”(3). Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (năm 1998) nhấn mạnh: “Những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống...”(4).
Ngày nay, những giá trị văn hóa truyền thống không ngừng được bồi đắp, phát huy. Việc định hình, hoàn thiện hệ giá trị văn hóa dân tộc trong thời đại mới được xem là một trong các nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt trong công cuộc xây dựng CNXH, nhằm tạo ra đời sống tinh thần lành mạnh, nhân văn, tiến bộ, vì hạnh phúc và sự phát triển toàn diện con người. “Hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật; đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước. Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo”(5).
Bên cạnh những kết quả đạt được trong kiến tạo hệ giá trị văn hóa của dân tộc, trong bối cảnh hiện nay còn nhiều khó khăn, thách thức cần vượt qua.
1. Thách thức từ xu thế toàn cầu hóa văn hóa và sự nhiễu loạn thông tin trên internet
Toàn cầu hóa văn hóa là xu thế phát triển chung của nhân loại trong bối cảnh bùng nổ công nghệ thông tin, internet, mở ra cơ hội thuận lợi trong giao lưu, hợp tác, trao đổi tri thức, kinh nghiệm giữa các nền văn hóa. Tuy nhiên, mặt trái của quá trình toàn cầu hóa văn hóa cũng đặt ra những thách thức trong việc gìn giữ, kiến tạo bản sắc và hệ giá trị văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc, trong đó có Việt Nam. Xu thế nhất thể hóa, toàn cầu hóa văn hóa với quan điểm lấy châu Âu làm trung tâm, trong đó văn hóa đại chúng Mỹ thịnh hành và có sức lan tỏa mạnh mẽ đang tác động tới việc gìn giữ bản sắc văn hóa của các dân tộc. Mặt trái của quá trình hội nhập, giao lưu kinh tế, văn hóa là nhiều xuất bản phẩm ngoại lai tấn công, xâm chiếm thị trường văn hóa phẩm trong nước. Có thời gian, việc nhập khẩu và quảng bá điện ảnh Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Trung Quốc trên các kênh truyền hình quốc gia có tác động tiêu cực đến nhận thức, hành vi và lối sống của giới trẻ, gây nguy cơ bão hòa văn hóa, xóa nhòa và “làm mờ” bản sắc văn hóa dân tộc.
Chiến lược quảng bá “sức mạnh mềm văn hóa” của các nước thông qua ảnh hưởng của các sản phẩm văn hóa, chủ yếu là văn hóa tiêu dùng, ẩm thực, thời trang, mỹ phẩm... nhằm khuyến khích, “lôi kéo” thế hệ trẻ tin dùng, theo đuổi và đam mê nền văn hóa đó. Chiến lược này kết hợp với tâm lý sính ngoại, ưa hư danh của một bộ phận giới trẻ Việt Nam gây ra những “va chạm, xung đột” trong nhận thức, hành vi khi khó phân định, nhận diện mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại; bản sắc văn hóa dân tộc và hội nhập quốc tế.
Cách mạng công nghiệp 4.0 mà hạt nhân là internet kết nối vạn vật xóa nhòa khoảng cách các quốc gia để chia sẻ, hợp tác, cùng phát triển. Nhưng cũng chính không gian mở của internet khiến nhiều quốc gia phải ban hành các đạo luật về an toàn, an ninh mạng; nguy cơ của các cuộc khủng bố, chiến tranh mạng. Lợi dụng ưu thế của mạng internet, nhiều thế lực thù địch không ngừng tuyên truyền, gieo rắc tư tưởng phản động, chống phá công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta; khoét sâu vào vấn đề ly khai, xung đột sắc tộc, tôn giáo; xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ các danh nhân, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, gây hoang mang dao động trong quần chúng. “Hiện có khoảng 400 tổ chức phản động lưu vong, 380 báo, tạp chí và 60 đài phát thanh có chương trình tiếng Việt, hơn 80 nhà xuất bản và hàng nghìn trang web thường đăng tải tin bài, xuất bản những ấn phẩm có nội dung phản động, xuyên tạc chống phá Đảng, Nhà nước”(6). Hiện có hàng nghìn trang web, blog, mạng xã hội của các cá nhân, tổ chức phản động đang hoạt động và đăng tải các tin, bài viết, bình luận, phỏng vấn... tuyên truyền tư tưởng phản động nhằm chống phá Nhà nước, như: “Dân làm báo”, “Quan làm báo”, “Dân luận”, “Việt Tân”...”. Người dùng mạng xã hội ở Việt Nam rất lớn, “tính đến tháng 1 năm 2017, Việt Nam có 50.05 triệu người dùng internet, chiếm 53% dân số, tăng 6% so với năm 2016. Số người dùng mạng xã hội là 46 triệu người, chiếm 48% dân số. Trung bình 1 ngày, người Việt Nam bỏ ra 6 giờ 53 phút để duyệt Web nếu dùng PC và Tablet, 2 giờ 33 phút nếu dùng điện thoại di động và dành 2 giờ 39 phút cho mạng xã hội”(7). Điều nàygây trở ngại cho công tác tư tưởng, văn hóa của Đảng khi trên không gian mạng, bên cạnh những thông tin chính thống, tích cực là thông tin, luồng tư tưởng phản động, hàng ngày hàng giờ tấn công, chi phối và thâm nhập vào tư tưởng, suy nghĩ, lối sống của nhiều người. Sự nhiễu loạn thông tin trên các phương tiện truyền thông khiến người tiếp nhận hoang mang, dao động, khó tìm thấy đường hướng, tương lai và con đường lựa chọn cho riêng mình. Hành vi bắt chước trên không gian ảo gây hậu họa khôn lường, làm xấu hình ảnh con người, văn hóa dân tộc. Vì thế, việc định hướng, hình thành chuẩn mực giá trị con người Việt Nam là vô cùng cần thiết để mỗi người ý thức rõ về bổn phận, trách nhiệm của bản thân trước cộng đồng, xã hội.
2. Thách thức từ bối cảnh chuyển đổi mô hình kinh tế
Sau hơn 30 năm đổi mới, đất nước đạt được nhiều thành tựu trên nhiều lĩnh vực. Với văn hóa, quá trình mở cửa, hội nhập đem lại nhiều cơ hội để tạo dựng những giá trị tích cực, góp phần làm giàu bản sắc văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, trong bối cảnh chuyển đổi hệ hình, tư duy, từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, thời kỳ “quá độ” với sự giao tranh, giằng co giữa cái cũ với cái mới, nhiều hiện tượng phức tạp nảy sinh. Bối cảnh đó khiến nhiều giá trị tốt đẹp bị lãng quên hay đẩy xuống vị trí thứ cấp, đồng thời, tạo thói quen xấu, gây ra sự khủng hoảng niềm tin, đứt gãy hệ giá trị văn hóa.
Nhiều vụ tham nhũng, đánh bạc liên quan đến nhiều cán bộ, đảng viên giữ những cương vị, trọng trách cao trong các cơ quan, ban ngành của Đảng, Nhà nước bị phát hiện và xét xử. Năm 2017, 300 tổ chức Đảng, với hơn 18.600 đảng viên, trong đó có hơn 700 đảng viên vi phạm về tham nhũng, cố ý làm trái đã bị thi hành kỷ luật. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư kỷ luật 3 tổ chức Đảng và 11 cán bộ; Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã tập trung kiểm tra và thi hành kỷ luật theo thẩm quyền đối với 18 cán bộ; trong đó nhiều vụ đặc biệt nghiêm trọng liên quan đến cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước và một số cấp ủy, tổ chức Đảng. Thực trạng đó gióng lên hồi chuông về sự suy thoái tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, gây mất niềm tin nghiêm trọng của nhân dân vào cán bộ và các cơ quan công quyền. “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước”(8).
Văn hóa Việt Nam đề cao sự nêu gương và hình mẫu nhân cách của người đứng đầu. Cán bộ, đảng viên do nhân dân trao quyền lãnh đạo lại có hành vi đi ngược lại lợi ích của nhân dân, tập thể khiến mong ước, khát vọng và niềm tin của người dân “lung lay”, xao động. Bên cạnh đó, những hành vi phản cảm, thiếu văn hóa, đi ngược lại xu hướng văn minh, tiến bộ của nhân loại như: bạo lực học đường, hiện tượng mê tín dị đoan, nạn tranh cướp lộc trong lễ hội, văn hóa phong bì..., phản ánh những lỗ hổng trong việc tạo dựng nền tảng văn hóa và sự phai nhạt, khủng hoảng hệ giá trị và chuẩn mực ứng xử của con người trong bối cảnh mới nhiều cám dỗ, thử thách.
3. Thách thức từ chủ thể sáng tạo văn hóa
Con người là chủ thể sáng tạo văn hóa, đồng thời cũng là đối tượng thụ hưởng và chịu sự chi phối của nền văn hóa do mình sáng tạo ra. Qua ngôn ngữ, cử chỉ, thói quen sinh hoạt vật chất, tinh thần của cộng đồng có thể nhận diện được tín hiệu, đặc trưng văn hóa của dân tộc đó. Vì thế, văn hóa và con người có mối quan hệ bền chặt, tác động và chi phối lẫn nhau, biểu thị mối quan hệ giữa cái chung với cái riêng, cá nhân với cộng đồng.
Đặc tính văn hóa dân tộc đã được các nhà nghiên cứu văn hóa, như: Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Huyên, Trần Trọng Kim, Phan Kế Bính... nhận diện qua tâm lý, tính cách, phẩm chất con người trong mối tương tác với môi trường tự nhiên, điều kiện địa lý, hoàn cảnh lịch sử. Vì thế, để kiến tạo hệ giá trị văn hóa dân tộc cần quan tâm, chú ý vai trò sáng tạo của chủ thể nhân dân; giáo dục, đào tạo những con người mới với những phẩm chất, tính cách như: “có nhân cách, lối sống tốt đẹp với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo”. “Có ý thức tôn trọng pháp luật, hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc... Có thế giới quan khoa học, hướng tới chân - thiện - mỹ. Có lối sống “Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”; sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ môi trường; kết hợp hài hòa tính tích cực cá nhân và tính tích cực xã hội; đề cao trách nhiệm cá nhân đối với bản thân, gia đình và xã hội. Khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn”(9).
Để đạt được mục tiêu đề ra, thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, trong đó việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là yêu cầu cấp bách. Chú trọng xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong gia đình, nhà trường, xã hội... Việc xây dựng, phát triển con người có nhân cách, có ích cho xã hội là một quá trình lâu dài, gian nan với chiến lược và kế sách lâu dài. Tuy nhiên, bối cảnh xã hội hiện nay đang đặt ra nhiều thách thức cho “sự nghiệp trồng người”.
Với hơn 70% dân số sinh sống ở nông thôn, những thói quen của cư dân tiểu nông làng xã làm ăn manh mún, thói tùy tiện...vẫn còn, đặc biệt, ám ảnh, đeo bám cả những đô thị, thành phố văn minh hiện đại. Việc chính quyền nhiều đô thị thất bại trong những đợt ra quân lấy lại vỉa hè cho người đi bộ; cảnh đun nấu bếp than, chăn nuôi gia cầm, trồng rau xanh trên tầng thượng các khu chung cư cao cấp; phương thức canh tác sản xuất thời vụ, chạy theo phong trào khiến nhiều nông dân lao đao vì được mùa mất giá... là những rào cản lớn về mặt nhận thức, tư duy, cản trở quá trình xây dựng, hình thành con người mới tiến bộ. Đô thị hóa, công nghiệp hóa trên nền xã hội nông nghiệp cổ truyền, “trọng tình, trọng tuổi, trọng kinh nghiệm” vẫn còn in dấu ấn sâu đậm trong tâm trí người dân là một thách thức khi thói quen, tập quán lạc hậu vẫn tồn tại, việc học tập, làm quen với những giá trị mới trở nên khó khăn.
Xã hội hiện đại đòi hỏi con người phải hành xử theo những chuẩn mực văn minh với tinh thần thượng tôn pháp luật, tôn trọng quyền tự do, dân chủ, nhưng ở nhiều đô thị, thành phố, những hành vi đi ngược lại quy tắc, chuẩn mực chung của xã hội, như: chen lấn, xô đẩy trong lễ hội; lộn xộn, vô nguyên tắc khi tham gia giao thông; lạnh lùng, vô cảm trước những cảnh huống bất công, không bảo vệ đồng loại khi bị tấn công; không có tinh thần đấu tranh cho lẽ phải, sự công bằng... còn tồn tại. Trong hệ thống giáo dục quốc dân, tâm lý chạy theo thành tích, không lấy người học làm trung tâm, nạn học thêm dạy thêm tràn lan; tiếng nói của người học chưa được coi trọng đúng mức, tình trạng áp đặt một chiều; lạm thu, lạm quyền xuất hiện... khiến cho niềm tin của người dân vào giáo dục giảm sút. Một bộ phận thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên do thiếu lý tưởng sống, nhận thức phiến diện, lệch lạc nên có hành vi lệch chuẩn, sống nhanh, sống gấp. Nhiều thanh niên sa vào tệ nạn xã hội, như: nghiện ma túy, cờ bạc...
Để giáo dục, hình thành nên những con người mới có bản lĩnh, có tri thức, nhân cách và phẩm chất tốt đẹp đòi hỏi quá trình trao truyền văn hóa, tri thức, kinh nghiệm và lối sống của các thế hệ đi trước phải có nền tảng văn hóa. Điều này giúp thế hệ trẻ được sống trong môi trường lành mạnh, tạo “bộ lọc” giúp họ tránh xa cái xấu, cái ác và chủ động, tự tin đón nhận những giá trị văn hóa mới của thế giới, làm chủ tương lai.
Để xây dựng hoàn thiện hệ giá trị chuẩn mực con người Việt Nam hiện nay cần sự thống nhất trong nhận thức, tư tưởng, hành động và biện pháp tiến hành đồng bộ, hợp lý, hiệu quả; tôn trọng tinh thần tự do, sáng tạo của con người; bảo đảm quyền công dân; hướng con người đến những giá trị cao đẹp của chân, thiện, mỹ. Phát huy và làm lan tỏa những giá trị, phẩm chất tốt đẹp của người Việt Nam truyền thống, đồng thời không ngừng học tập những giá trị tiến bộ, văn minh của nhân loại. Việc tạo dựng hệ giá trị chuẩn mực, nhất là về văn hóa, nhân cách, lối sống sẽ tạo điều kiện căn bản để phát triển kinh tế - xã hội, đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Hệ giá trị là yếu tố cơ bản để nhận diện bản sắc văn hóa của một dân tộc; là mục tiêu, lý tưởng, khát vọng mà con người vươn tới. Vì thế, việc hoàn thiện hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực con người Việt Nam trong điều kiện hiện nay là việc làm cấp thiết, đòi hỏi sự vào cuộc của các cấp, các ngành và mỗi cá nhân để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh cùng với các nguồn lực, sức mạnh khác sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp hiện đại.
_______________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 4.2017
(1) Ngô Đức Thịnh: Nghiên cứu hệ giá trị văn hóa truyền thống, vanhoahoc.vn.
(2), (3) Mấy vấn đề về hệ giá trị Việt Nam, vanhoahoc.vn
(4) Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, dangcongsan.vn.
(5) Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI, baochinhphu.vn.
(6) Tỉnh táo, chủ động đấu tranh với thông tin xuyên tạc, bịa đặt, qdnd.vn.
(7) Digital in 2017: A study of Internet, Social Media, and Mobile use throughout the region of Southeast Asia, We Are Social.
(8) Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, dangcongsan.vn.
(9) Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI, dangcongsan.vn.
TS Nguyễn Huy Phòng
Viện Văn hóa và phát triển, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Nguồn: http://lyluanchinhtri.vn
Bài liên quan
- Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
- Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
- Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- Phát huy vai trò của ngành công nghiệp xuất bản trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 3 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
Bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội hiện nay đứng trước rất nhiều khó khăn, thách thức do các yếu tố chủ quan và khách quan mang lại. Lan toả các giá trị tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để tiếp tục đưa đất nước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa. Vấn đề của hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội hiện nay là làm sao thu hút được sự quan tâm của đại bộ phận nhân dân, để nhân dân tin tưởng và làm theo Đảng thông qua những nội dung gần gũi, sinh động, hấp dẫn và hiện đại. Hai yếu tố ảnh hưởng lớn nhất tới hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng chính là sự phát triển nhanh chóng của các phương tiện truyền thông, đặc biệt truyền thông xã hội và hiện tượng truyền thông hoá.
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Nhìn toàn bộ tiến trình lịch sử chính trị của dân tộc, “Hệ thống chính trị” nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thiết chế chính trị mạnh, mô hình này phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đúng với quy luật vận động của lịch sử. Và, cũng từ thực tế lịch sử, có thể thấy sức mạnh thực sự của Hệ thống chính trị mà chúng ta đang có chủ yếu không phải do tính chất nhất nguyên mà là do uy tín của Đảng, Nhà nước và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sức sống của hệ thống chính trị là sự phù hợp, thống nhất giữa mục đích của Đảng với nguyện vọng của nhân dân, với nhu cầu phát triển của đất nước. Hệ thống chính trị Việt Nam đương đại, trên cơ sở kết tinh các giá trị thiết chế truyền thống gắn với hiện đại không ngừng đổi mới phát triển khẳng định sức mạnh của Hệ thống tổ chức quyền lực Chính trị Việt Nam có vai trò quyết định thành công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Xây dựng tổ chức bộ máy hiệu lực, hiệu quả là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn kết, thống nhất, dũng cảm, sự hy sinh của từng cán bộ, đảng viên cùng với quyết tâm rất cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về xây dựng hệ thống chính trị với tiêu đề: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”:
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Với cộng đồng 54 dân tộc anh em, Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa đa dạng, phong phú, có những nét riêng, trở thành tài sản quý giá làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam độc đáo, đặc sắc. Giữ gìn và bảo vệ các giá trị di sản văn hóa truyền thống chính là góp phần củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc - một sức mạnh nội sinh to lớn và vĩ đại, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chạy đua vũ trang, các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraina ở Đông Âu, giữa Israel và Palestine vùng các tổ chức hồi giáo ở Trung Đông diễn biến ngày càng căng thẳng đe dọa tới hòa bình, an ninh khu vực và thế giới. Tuy vậy, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là mục tiêu hướng tới của các nước, là xu hướng chính trị -xã hội tất yếu của nhân loại, từ đó đặt ra vai trò, trách nhiệm của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Bình luận