Thực hiện bình đẳng giới trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
Nam nữ bình đẳng là một trong những quyền cơ bản, thiêng liêng của con người. Đấu tranh cho nam nữ bình quyền, giải phóng phụ nữ luôn gắn liền với các cuộc cách mạng xã hội. Bình đẳng đối với phụ nữ chính là thước đo trình độ phát triển, tiến bộ của xã hội. Ở Việt Nam, thực hiện bình đẳng giới là chủ trương, chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước ta. Quyền bình đẳng giới đã được hiến định ngay từ Hiến pháp đầu tiên của đất nước. Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 - 2030 đã khẳng định: “Tiếp tục thu hẹp khoảng cách giới, tạo điều kiện, cơ hội để phụ nữ và nam giới tham gia, thụ hưởng bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước”(1).
Trong những năm qua, các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước đã được triển khai thực hiện, tạo sự chuyển biến toàn diện về nhận thức và hành vi đối với việc bảo vệ quyền bình đẳng giới của phụ nữ về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội trong gia đình và ngoài cộng đồng. Tuy là một môi trường đặc thù, nhưng quân đội đã triển khai thực hiện nhiều chủ trương, giải pháp nhằm bảo đảm quyền, lợi ích của nữ giới theo Hiến pháp, pháp luật, góp phần phát huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng quân đội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1. Tình hình thực hiện bình đẳng giới trong quân đội
Quân đội là một tổ chức quân sự nên số lượng nữ không nhiều; phân bổ không đều ở các quân, binh chủng và các cơ quan, đơn vị, thậm chí nhiều đơn vị không có nữ. Thực hiện quan điểm, chính sách về bình đẳng giới của Đảng, Nhà nước ta, nhất là thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 27.4.2007, của Bộ Chính trị “Về công tác phụ nữ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, các chương trình công tác trọng tâm của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, bình đẳng giới trong quân đội được cụ thể hóa qua các hoạt động tạo điều kiện thuận lợi để phụ nữ quân đội vừa “đảm việc nhà”, vừa phát huy vai trò trên các lĩnh vực hoạt động quân sự, hoàn thành tốt nhiệm vụ ở các cơ quan, đơn vị góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Những năm qua, quân đội luôn quan tâm thực hiện bình đẳng giới gắn liền với công tác phụ nữ. Công tác vì sự tiến bộ của phụ nữ và bình đẳng giới trong quân đội được tiến hành theo các kế hoạch hành động từng giai đoạn, dưới sự chỉ đạo, lãnh đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Ủy ban Quốc gia Vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam và cấp ủy, tổ chức chỉ huy các cơ quan, đơn vị trong toàn quân. Bộ Quốc phòng đã quán triệt và tổ chức thực hiện có hiệu quả Quyết định số 2351/2010/QĐ-TTg, ngày 24.12.2010, của Thủ tướng Chính phủ “Phê duyệt Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020”; Quyết định số 515/QĐ-TTg, ngày 31.3.2016, của Thủ tướng Chính phủ “Phê duyệt Đề án thực hiện biện pháp bảo đảm bình đẳng giới đối với nữ cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016 - 2020”… Theo đó, công tác bình đẳng giới trong quân đội đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ trên một số lĩnh vực chính trị, kinh tế và lao động, giáo dục và đào tạo, y tế, gia đình, thông tin…
Trên lĩnh vực chính trị, các cấp ủy, tổ chức chỉ huy chú trọng làm tốt công tác giáo dục cho phụ nữ nhận thức đúng vai trò, vị thế của mình trong xã hội và trong quân đội; động viên chị em tích cực tham gia các hoạt động của các cơ quan, đơn vị; giải quyết hài hòa giữa công việc chung với việc gia đình, không tự ti, mặc cảm giới. Đồng thời, các đơn vị đã xây dựng quy hoạch phát triển, duy trì tỷ lệ cán bộ nữ phù hợp ở một số ngành chuyên môn kỹ thuật và cán bộ lãnh đạo, quản lý, chỉ huy ở các cơ quan, đơn vị. Giai đoạn 2011 - 2020, tỷ lệ cán bộ nữ tăng từ 1,8% (năm 2010) lên 2,83% (6 tháng đầu năm 2020) trong tổng số cán bộ đang công tác của toàn quân; tỷ lệ nữ được kết nạp vào Đảng trung bình mỗi năm đạt 9,11% (năm 2010 đạt 8,55%), tỷ lệ cán bộ nữ tham gia cấp ủy các cấp đạt 2,62% (tính đến tháng 6.2020); 100% đơn vị trực thuộc Bộ Quốc phòng có đại diện phụ nữ tham gia các hội đồng tư vấn, các đoàn kiểm tra về những vấn đề có liên quan đến phụ nữ và trẻ em(2). Đến nay, số cán bộ nữ giữ chức vụ quản lý, chỉ huy so với tổng số cán bộ nữ hiện đang công tác là 25,8% (trong đó cấp trực thuộc Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng là 0,19%; cấp cục và tương đương là 1,07%; cấp phòng, khoa và tương đương là 16,7%; cấp tiểu đoàn, đại đội là 6,15%; 1 nữ quân nhân được phong quân hàm cấp tướng(3).
Việc tuyển dụng, đào tạo, đề bạt, bổ nhiệm quân nhân vào những vị trí phù hợp được quan tâm, bảo đảm dân chủ, khách quan theo hướng tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh đạo nhằm từng bước giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị. Công tác quy hoạch cán bộ nữ được triển khai phù hợp với từng cấp, từng ngành và quy hoạch chung của quân đội. Các cấp ủy, tổ chức chỉ huy trong quân đội ngày càng quan tâm đến công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao trình độ giác ngộ chính trị, xã hội cho phụ nữ quân đội. Do đó, cán bộ, hội viên phụ nữ quân đội luôn có lập trường chính trị, tư tưởng kiên định, vững vàng, tinh thần trách nhiệm cao, ý thức, thái độ làm việc nghiêm túc, phẩm chất đạo đức tốt, đoàn kết, tương thân tương ái giúp nhau cùng tiến bộ; kỷ luật tự giác, nghiêm minh; sôi nổi trong hoạt động phong trào, chịu thương, chịu khó, cần, kiệm trong thực hiện nhiệm vụ và chăm lo cuộc sống gia đình.
Trên lĩnh vực kinh tế và lao động, các doanh nghiệp đều bố trí đủ việc làm cho lao động nữ. Điều kiện làm việc, môi trường lao động từng bước được cải thiện, trang thiết bị ngày càng được đầu tư nâng cấp; phương tiện cá nhân được các đơn vị bảo đảm đủ cho người lao động theo quy định, đặc biệt đối với lao động nữ; thực hiện nghiêm chế độ phụ cấp lương độc hại. Hằng năm, Bộ Quốc phòng có chỉ tiêu, chính sách cụ thể trong tuyển chọn công dân nữ nhập ngũ. 100% công dân nữ được tuyển chọn, tuyển dụng đều tốt nghiệp đào tạo trung cấp trở lên; trong đó, trình độ đại học, cao đẳng chiếm 77,25%, cơ bản được bố trí sử dụng đúng chuyên ngành, nhằm phát huy tối đa năng lực, sở trường và khả năng công tác. Thực hiện chủ trương tinh giản biên chế, điều chỉnh tổ chức quân đội đến năm 2021 theo Kết luận số 16-KL/TW, ngày 7.7.2017, của Bộ Chính trị “Về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam đến năm 2021”, các cơ quan chức năng đã phối hợp tham mưu, đề xuất giải quyết thôi phục vụ tại ngũ, thôi phục vụ trong quân đội cho các đối tượng thuộc thẩm quyền, trong đó, số nữ chiếm 20,91%.
Các phong trào “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình”, “Phụ nữ làm kinh tế giỏi” và các mô hình tiết kiệm, hỗ trợ phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn phát triển kinh tế gia đình được đẩy mạnh. Từ năm 2012 đến nay, Bộ Quốc phòng hỗ trợ 27 tỷ đồng cho phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn vay vốn không tính lãi, phát triển kinh tế gia đình, góp phần xây dựng gia đình “No ấm, tiến bộ, hạnh phúc”, giảm tỷ lệ phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn trên tổng số phụ nữ toàn quân từ 2,12% (năm 2011) xuống còn 1,59% (6 tháng đầu năm 2020). Tuyển dụng nữ công dân vào phục vụ tại ngũ đạt 66,67%, tỷ lệ nữ được tuyển chọn quân nhân chuyên nghiệp từ công nhân và viên chức quốc phòng đạt 43,8% so với tổng quân số được tuyển chọn; tỷ lệ nữ được nâng loại, chuyển nhóm lương là 42,93%(4).
Trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo, hầu hết cán bộ nữ đều có bản lĩnh chính trị vững vàng; trình độ năng lực lãnh đạo, chỉ huy quản lý và trình độ chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ đã có bước phát triển mới theo yêu cầu nhiệm vụ. Cấp ủy, chỉ huy các đơn vị đã quan tâm đến việc tạo nguồn, bồi dưỡng cán bộ nữ. Năm 2019, toàn quân có 99,8% cán bộ nữ có trình độ cao đẳng, đại học trở lên, trong đó 38,8% có trình độ sau đại học (tăng 4,5% so với năm 2018); 0,76% cán bộ nữ được cử đi đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ tại các học viện, nhà trường; có 49 học viên nữ tốt nghiệp các học viện, nhà trường được phong quân hàm sĩ quan; 102 học sinh nữ được tuyển sinh vào các học viện, trường sĩ quan; 4 nữ học viên được tuyên dương học viên giỏi, tốt nghiệp thủ khoa…(5). Giai đoạn 2016 - 2021, tổng số lượt phụ nữ được đào tạo, bồi dưỡng là 24.216, trong đó, trên đại học là 2.023; đại học là 3.786; cao đẳng là 2.711; trung cấp là 3.362; đào tạo nghề, đào tạo lại là 12.244(6).
Trên lĩnh vực y tế, lãnh đạo, chỉ huy các cấp thường xuyên quan tâm, chủ động phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể liên quan triển khai thực hiện Cuộc vận động “Phụ nữ thực hiện vệ sinh an toàn thực phẩm vì sức khỏe gia đình và cộng đồng”, “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch”. Quân y các đơn vị trong toàn quân đẩy mạnh các hoạt động truyền thông, giáo dục, tư vấn về chăm sóc sức khỏe sinh sản, phòng, chống tai nạn thương tích; nâng cao chất lượng tư vấn, khám sức khỏe định kỳ kết hợp khám, điều trị các bệnh phụ khoa; chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ. Giai đoạn 2011 - 2020, 100% phụ nữ được tiếp cận các dịch vụ y tế và khám sức khỏe định kỳ; chất lượng chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ ngày càng được nâng lên.
Trên lĩnh vực văn hóa và thông tin, thường xuyên quan tâm, bảo đảm bình đẳng giới giữa nam, nữ cán bộ, nhân viên, chiến sĩ, công nhân viên chức và lao động quốc phòng trong tham gia các hoạt động và hưởng thụ văn hóa, tiếp cận, sử dụng các nguồn thông tin. Định kỳ hằng tháng, Trung tâm Phát thanh - Truyền hình Quân đội, Báo Quân đội nhân dân và các cơ quan truyền thông của đơn vị trong toàn quân có ít nhất 1 chuyên mục, chuyên đề, bài viết tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về bình đẳng giới, về phòng, chống bạo lực gia đình; với các chuyên đề “Hậu phương của chúng ta”; Kênh Truyền hình Quốc phòng Việt Nam đã có chuyên mục “Nữ quân nhân” tuyên truyền về bình đẳng giới và gương phụ nữ tiêu biểu trên các lĩnh vực công tác. Biên soạn, phát hành nhiều sản phẩm truyền thông: 50 số Thông tin Phụ nữ Quân đội với 450.000 cuốn; 430.000 tờ rơi, 7.600 áo truyền thông tuyên truyền về “Tháng hành động vì bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới” cấp phát cho Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ và tổ chức hội phụ nữ trong toàn quân; không có các sản phẩm văn hóa, thông tin mang định kiến giới(7).
Trên lĩnh vực gia đình, những năm qua, Bộ Quốc phòng đã chỉ đạo các đơn vị tổ chức tốt các hoạt động truyền thông phòng, chống bạo lực gia đình và tệ nạn xã hội hưởng ứng “Tháng hành động quốc gia phòng, chống bạo lực gia đình”, “Tháng hành động vì bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới”. Phụ nữ quân đội đã xây dựng kế hoạch và triển khai tổ chức thực hiện hiệu quả phong trào thi đua “Phụ nữ quân đội đoàn kết - sáng tạo, hoàn thành tốt nhiệm vụ, xây dựng gia đình hạnh phúc, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”, gắn với đẩy mạnh việc thực hiện Cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch”; phòng, chống, ngăn chặn hiệu quả vụ việc bạo lực trong các gia đình quân nhân. Đến nay, số vụ việc vi phạm Luật Hôn nhân gia đình, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, Luật Trẻ em trong quân đội đều giảm; không có phụ nữ trong quân đội là nạn nhân của các vụ buôn bán người.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc thực hiện bình đẳng giới trong quân đội hiện nay còn những vấn đề đặt ra: Định kiến về giới, phân biệt đối xử nam nữ vẫn tồn tại làm cho phụ nữ gặp không ít khó khăn, thiệt thòi trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội, cơ hội được bồi dưỡng đào tạo, thăng tiến, đề bạt; tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, coi nhẹ phụ nữ vẫn tồn tại trong quan hệ công tác và đời sống sinh hoạt quân nhân; một số cấp ủy đảng, tổ chức chỉ huy, các đoàn thể chưa thực sự quan tâm đến công tác phụ nữ và bồi dưỡng, phát triển cán bộ nữ; các chế độ, chính sách, mục tiêu quốc gia của Nhà nước đã ban hành vì sự tiến bộ của phụ nữ có lúc, có nơi chưa triển khai đồng bộ; số phụ nữ quân đội tham gia cấp ủy, lãnh đạo, quản lý còn ít; trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề của chị em nhìn chung chưa cao; công tác tuyên truyền về bình đẳng giới có lúc chưa thường xuyên, chậm đổi mới nội dung, hình thức. Mặt khác, có không ít phụ nữ quân đội còn tư tưởng an phận, ngại phấn đấu, làm việc cầm chừng, tư tưởng tự ti, mặc cảm vì định kiến, sinh con thứ ba... Nguyên nhân chủ yếu của hạn chế trên thuộc về công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cán bộ các cấp và ý thức tự giác của một số phụ nữ về vấn đề này chưa cao.
2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện bình đẳng giới trong quân đội trong thời gian tới
Một là, tạo sự chuyển biến trong nhận thức của các chủ thể bình đẳng giới. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao trách nhiệm của chính quyền các cấp trong thực hiện, chính sách, pháp luật về bình đẳng giới”(8). Điều kiện tiên quyết đối với việc thực hiện bình đẳng giới trong quân đội trước hết phải nâng cao nhận thức của các chủ thể. Theo đó, cần thực hiện tốt một số nội dung cơ bản, như quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Nhà nước, quân đội và cấp ủy các cấp về vấn đề thực hiện bình đẳng giới; thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi về bình đẳng giới cho mọi đối tượng trong quân đội; xây dựng và hoàn thiện cơ chế phối hợp hoạt động giữa các chủ thể hướng vào nâng cao hiệu quả thực hiện vấn đề bình đẳng giới; thông qua hoạt động thực tiễn chuyên môn ở đơn vị để bồi dưỡng ý thức, thái độ, trách nhiệm các tổ chức, cá nhân trong nâng cao hiệu quả thực hiện bình đẳng giới.
Hai là, thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp thực hiện bình đẳng giới trong quân đội. “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, tham mưu có hiệu quả công tác cán bộ nữ,... góp phần quan trọng trong sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”(9). Đây là giải pháp mang tính đột phá nhằm trang bị những yếu tố cốt lõi cho sự hình thành và phát triển khả năng thực hiện bình đẳng giới trong quân đội. Lãnh đạo, chỉ huy các cấp phải căn cứ tình hình, đặc điểm của nữ quân nhân, nhiệm vụ của của từng loại hình đơn vị để xây dựng kế hoạch, bồi dưỡng nâng cao khả năng thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, cũng như kiến thức về bình đẳng giới. Đồng thời, trên cơ sở kế hoạch, đối tượng, nội dung đã xác định để hoạt động bình đẳng giới mang lại hiệu quả, cần đa dạng hình thức, biện pháp tiến hành. Hoạt động này có thể diễn ra ở nhiều cấp độ, nhiều hình thức khác nhau ứng với mỗi đối tượng, mỗi hoàn cảnh cụ thể. Bên cạnh đó, bản thân nữ quân nhân phải nỗ lực, tích cực, chủ động trải nghiệm thực tiễn quân sự.
Ba là, phát huy tính tích cực, tự giác, tự học tập, tự rèn luyện phấn đấu vươn lên của phụ nữ quân đội. Đây là giải pháp có ý nghĩa trực tiếp quyết định đến hiệu quả công tác bình đẳng giới trong quân đội, bởi phụ nữ quân đội vừa là chủ thể, vừa là đối tượng trong quá trình này. Bên cạnh tác động của những điều kiện khách quan thuận lợi, để quá trình này đạt hiệu quả mong muốn, đòi hỏi phải phát huy cao độ tính tích cực, tự giác, tự học tập, rèn luyện của từng cá nhân phụ nữ quân đội. Đây chính là nhân tố chủ quan trực tiếp quyết định đến chất lượng và hiệu quả của toàn bộ quá trình thực hiện bình đẳng giới trong quân đội. Nếu phụ nữ quân đội không phát huy tính tích cực, tự giác, tự giáo dục, rèn luyện, phấn đấu vươn lên thì khó có thể hoàn thiện các phẩm chất cần thiết của bản thân và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Theo đó, cần thực hiện tốt một số nội dung, biện pháp, như thường xuyên giáo dục, xây dựng động cơ, xu hướng nghề nghiệp đúng đắn; tích cực học tập, tự rèn luyện không ngừng nâng cao phẩm chất, năng lực; quan tâm, tạo điều kiện để phụ nữ quân đội tự học tập, tự rèn luyện, tự phát triển và thường xuyên tổ chức các phong trào thi đua và tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong các hoạt động thực tiễn quân sự…/.
__________________________________________________
(1) Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 - 2030 (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 28/NQ-CP, ngày 3.3.2021, của Chính phủ).
(2), (4), (5), (7) Bộ Quốc phòng, Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ: Báo cáo tổng kết thực hiện Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới trong quân đội giai đoạn 2011-2020, Hà Nội, 2020.
(3), (6), (9) Tổng cục Chính trị: Báo cáo của Tổng cục Chính trị tại Đại hội đại biểu phụ nữ quân đội lần thứ VII, ngày 13.12.2021.
(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, T.II, tr.140.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Cộng sản ngày 12.7.2022
Bài liên quan
- Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
- Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
- Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
- Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
- Quản lý hình ảnh về phụ nữ dân tộc thiểu số Việt Nam trên các sản phẩm báo ảnh tại Thông tấn xã Việt Nam hiện nay
Xem nhiều
-
1
[Video] Dấu ấn Cách mạng Tháng Tám qua những hiện vật lịch sử
-
2
Những yêu cầu và nguyên tắc phát triển báo chí – truyền thông trong kỷ nguyên mới
-
3
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
-
4
Truyền thông đại chúng trong kỷ nguyên số: động lực đổi mới mô hình phát triển xã hội Việt Nam hiện nay
-
5
Tác động của quảng cáo sản phẩm trên mạng xã hội đến hành vi mua sắm của học sinh trung học phổ thông Hà Nội
-
6
Báo chí với xây dựng văn hóa số ở Việt Nam hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Truyền thông đại chúng trong kỷ nguyên số: động lực đổi mới mô hình phát triển xã hội Việt Nam hiện nay
Bài báo phân tích vai trò trung tâm của truyền thông đại chúng trong quá trình đổi mới mô hình phát triển xã hội Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số, làm rõ cơ sở lý luận về truyền thông đại chúng và các chức năng xã hội của nó, đồng thời đánh giá thực trạng vận hành của truyền thông Việt Nam trong kỷ nguyên số. Bài viết phân tích sâu sắc khía cạnh an ninh thông tin – một thách thức nổi bật trong bối cảnh chuyển đổi số – và những tác động đa chiều của nó đến nhận thức, hành vi, cấu trúc xã hội, qua đó, chỉ ra các cơ hội, thách thức và đề xuất các nhóm giải pháp nhằm phát huy vai trò của truyền thông đại chúng như một động lực thúc đẩy phát triển xã hội Việt Nam.
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
Trong suốt hơn hai thập kỷ đầu thế kỷ XXI, tên của Tổng thống Vladimir Putin đã trở thành biểu tượng gắn liền với tiến trình phát triển và chuyển mình của Liên bang Nga. Từ một quốc gia đối mặt với khủng hoảng kinh tế - chính trị nghiêm trọng sau khi Liên Xô tan rã, nước Nga dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Putin đã từng bước khôi phục ổn định, nâng cao vị thế quốc tế và củng cố bản sắc quốc gia. Dù vẫn còn không ít tranh cãi, không thể phủ nhận rằng Tổng thống Vladimir Putin đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử nước Nga hiện đại như một nhà lãnh đạo có ảnh hưởng lớn lao và lâu dài. Bài viết được thực hiện với mục đích phân tích các giai đoạn cầm quyền của ông, từ đó làm rõ những đóng góp, lựa chọn chiến lược và quyết sách của Ông đối với vận mệnh quốc gia. Qua đó, góp phần lý giải vì sao Tổng thống Vladimir Putin được xem là “người sẽ cứu nước Nga” trong thời kỳ chuyển giao và định hình bản sắc, quyền lực quốc gia hậu Xô Viết.
Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Công cuộc tinh gọn bộ máy nhà nước là một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm hiện thực hóa mục tiêu xây dựng nền hành chính nhà nước hiện đại, hiệu lực, hiệu năng, hiệu quả, phục vụ nhân dân. Trong tiến trình đó, công tác cán bộ đóng vai trò trung tâm, bởi cán bộ chính là người tổ chức và thực thi cải cách. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, công tác cán bộ hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, chưa thực sự tương xứng với yêu cầu đổi mới bộ máy nhà nước. Bài viết tiếp cận vấn đề từ nền tảng lý luận Mác, Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn kiện Đảng để phân tích những vấn đề lý luận, thực tiễn trong đổi mới công tác cán bộ, từ đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu cải cách hệ thống chính trị trong bối cảnh mới.
Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
Trong bối cảnh chuyển đổi số y tế đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn quốc, một số bệnh viện tuyến trung ương đã bước đầu ứng dụng truyền thông số hiệu quả trong tư vấn tâm lý – xã hội, kết nối cộng đồng và vận động nguồn lực, tuy nhiên, phần lớn bệnh viện tuyến tỉnh, huyện chưa có điều kiện triển khai đầy đủ. Bài viết đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm tích hợp truyền thông số vào hoạt động công tác xã hội (CTXH) tại bệnh viện, góp phần định hướng phát triển CTXH bệnh viện theo hướng chuyên nghiệp, công bằng và thích ứng với bối cảnh số hóa y tế đến năm 2030.
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
Theo thống kê trong giai đoạn từ 2013 – 2023 cho thấy độ tuổi kết hôn trung bình của người dân đang có xu hướng tăng(1). Vì vậy, nhóm tác giả đã thực hiện nghiên cứu nhằm làm rõ những nhân tố ảnh hưởng tới hành vi này tại Việt Nam. Bài nghiên cứu chỉ ra sự thay đổi trong độ tuổi kết hôn của người dân Việt Nam, đồng thời phân tích rõ ảnh hưởng của những nhân tố như trình độ học vấn, nền tảng gia đình, địa lý, chi phí sinh hoạt, thu nhập, nghề nghiệp và truyền thông tới việc trì hoãn kết hôn, thông qua dữ liệu từ cuộc khảo sát gồm 736 người trong độ tuổi từ 18 – 35, trải rộng khắp các vùng miền của Việt Nam. Qua đó, nhóm tác giả nêu lên một số đánh giá về tác động của hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ tới sự phát triển của kinh tế - xã hội. Sau cùng, nhóm tác giả đề xuất giải pháp để giải quyết vấn đề trì hoãn kết hôn của người trẻ Việt Nam hiện nay.
Bình luận