Thực hiện bình đẳng giới trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
Nam nữ bình đẳng là một trong những quyền cơ bản, thiêng liêng của con người. Đấu tranh cho nam nữ bình quyền, giải phóng phụ nữ luôn gắn liền với các cuộc cách mạng xã hội. Bình đẳng đối với phụ nữ chính là thước đo trình độ phát triển, tiến bộ của xã hội. Ở Việt Nam, thực hiện bình đẳng giới là chủ trương, chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước ta. Quyền bình đẳng giới đã được hiến định ngay từ Hiến pháp đầu tiên của đất nước. Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 - 2030 đã khẳng định: “Tiếp tục thu hẹp khoảng cách giới, tạo điều kiện, cơ hội để phụ nữ và nam giới tham gia, thụ hưởng bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước”(1).
Trong những năm qua, các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước đã được triển khai thực hiện, tạo sự chuyển biến toàn diện về nhận thức và hành vi đối với việc bảo vệ quyền bình đẳng giới của phụ nữ về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội trong gia đình và ngoài cộng đồng. Tuy là một môi trường đặc thù, nhưng quân đội đã triển khai thực hiện nhiều chủ trương, giải pháp nhằm bảo đảm quyền, lợi ích của nữ giới theo Hiến pháp, pháp luật, góp phần phát huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng quân đội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1. Tình hình thực hiện bình đẳng giới trong quân đội
Quân đội là một tổ chức quân sự nên số lượng nữ không nhiều; phân bổ không đều ở các quân, binh chủng và các cơ quan, đơn vị, thậm chí nhiều đơn vị không có nữ. Thực hiện quan điểm, chính sách về bình đẳng giới của Đảng, Nhà nước ta, nhất là thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 27.4.2007, của Bộ Chính trị “Về công tác phụ nữ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, các chương trình công tác trọng tâm của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, bình đẳng giới trong quân đội được cụ thể hóa qua các hoạt động tạo điều kiện thuận lợi để phụ nữ quân đội vừa “đảm việc nhà”, vừa phát huy vai trò trên các lĩnh vực hoạt động quân sự, hoàn thành tốt nhiệm vụ ở các cơ quan, đơn vị góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Những năm qua, quân đội luôn quan tâm thực hiện bình đẳng giới gắn liền với công tác phụ nữ. Công tác vì sự tiến bộ của phụ nữ và bình đẳng giới trong quân đội được tiến hành theo các kế hoạch hành động từng giai đoạn, dưới sự chỉ đạo, lãnh đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Ủy ban Quốc gia Vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam và cấp ủy, tổ chức chỉ huy các cơ quan, đơn vị trong toàn quân. Bộ Quốc phòng đã quán triệt và tổ chức thực hiện có hiệu quả Quyết định số 2351/2010/QĐ-TTg, ngày 24.12.2010, của Thủ tướng Chính phủ “Phê duyệt Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020”; Quyết định số 515/QĐ-TTg, ngày 31.3.2016, của Thủ tướng Chính phủ “Phê duyệt Đề án thực hiện biện pháp bảo đảm bình đẳng giới đối với nữ cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016 - 2020”… Theo đó, công tác bình đẳng giới trong quân đội đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ trên một số lĩnh vực chính trị, kinh tế và lao động, giáo dục và đào tạo, y tế, gia đình, thông tin…
Trên lĩnh vực chính trị, các cấp ủy, tổ chức chỉ huy chú trọng làm tốt công tác giáo dục cho phụ nữ nhận thức đúng vai trò, vị thế của mình trong xã hội và trong quân đội; động viên chị em tích cực tham gia các hoạt động của các cơ quan, đơn vị; giải quyết hài hòa giữa công việc chung với việc gia đình, không tự ti, mặc cảm giới. Đồng thời, các đơn vị đã xây dựng quy hoạch phát triển, duy trì tỷ lệ cán bộ nữ phù hợp ở một số ngành chuyên môn kỹ thuật và cán bộ lãnh đạo, quản lý, chỉ huy ở các cơ quan, đơn vị. Giai đoạn 2011 - 2020, tỷ lệ cán bộ nữ tăng từ 1,8% (năm 2010) lên 2,83% (6 tháng đầu năm 2020) trong tổng số cán bộ đang công tác của toàn quân; tỷ lệ nữ được kết nạp vào Đảng trung bình mỗi năm đạt 9,11% (năm 2010 đạt 8,55%), tỷ lệ cán bộ nữ tham gia cấp ủy các cấp đạt 2,62% (tính đến tháng 6.2020); 100% đơn vị trực thuộc Bộ Quốc phòng có đại diện phụ nữ tham gia các hội đồng tư vấn, các đoàn kiểm tra về những vấn đề có liên quan đến phụ nữ và trẻ em(2). Đến nay, số cán bộ nữ giữ chức vụ quản lý, chỉ huy so với tổng số cán bộ nữ hiện đang công tác là 25,8% (trong đó cấp trực thuộc Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng là 0,19%; cấp cục và tương đương là 1,07%; cấp phòng, khoa và tương đương là 16,7%; cấp tiểu đoàn, đại đội là 6,15%; 1 nữ quân nhân được phong quân hàm cấp tướng(3).
Việc tuyển dụng, đào tạo, đề bạt, bổ nhiệm quân nhân vào những vị trí phù hợp được quan tâm, bảo đảm dân chủ, khách quan theo hướng tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh đạo nhằm từng bước giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị. Công tác quy hoạch cán bộ nữ được triển khai phù hợp với từng cấp, từng ngành và quy hoạch chung của quân đội. Các cấp ủy, tổ chức chỉ huy trong quân đội ngày càng quan tâm đến công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao trình độ giác ngộ chính trị, xã hội cho phụ nữ quân đội. Do đó, cán bộ, hội viên phụ nữ quân đội luôn có lập trường chính trị, tư tưởng kiên định, vững vàng, tinh thần trách nhiệm cao, ý thức, thái độ làm việc nghiêm túc, phẩm chất đạo đức tốt, đoàn kết, tương thân tương ái giúp nhau cùng tiến bộ; kỷ luật tự giác, nghiêm minh; sôi nổi trong hoạt động phong trào, chịu thương, chịu khó, cần, kiệm trong thực hiện nhiệm vụ và chăm lo cuộc sống gia đình.
Trên lĩnh vực kinh tế và lao động, các doanh nghiệp đều bố trí đủ việc làm cho lao động nữ. Điều kiện làm việc, môi trường lao động từng bước được cải thiện, trang thiết bị ngày càng được đầu tư nâng cấp; phương tiện cá nhân được các đơn vị bảo đảm đủ cho người lao động theo quy định, đặc biệt đối với lao động nữ; thực hiện nghiêm chế độ phụ cấp lương độc hại. Hằng năm, Bộ Quốc phòng có chỉ tiêu, chính sách cụ thể trong tuyển chọn công dân nữ nhập ngũ. 100% công dân nữ được tuyển chọn, tuyển dụng đều tốt nghiệp đào tạo trung cấp trở lên; trong đó, trình độ đại học, cao đẳng chiếm 77,25%, cơ bản được bố trí sử dụng đúng chuyên ngành, nhằm phát huy tối đa năng lực, sở trường và khả năng công tác. Thực hiện chủ trương tinh giản biên chế, điều chỉnh tổ chức quân đội đến năm 2021 theo Kết luận số 16-KL/TW, ngày 7.7.2017, của Bộ Chính trị “Về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam đến năm 2021”, các cơ quan chức năng đã phối hợp tham mưu, đề xuất giải quyết thôi phục vụ tại ngũ, thôi phục vụ trong quân đội cho các đối tượng thuộc thẩm quyền, trong đó, số nữ chiếm 20,91%.
Các phong trào “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình”, “Phụ nữ làm kinh tế giỏi” và các mô hình tiết kiệm, hỗ trợ phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn phát triển kinh tế gia đình được đẩy mạnh. Từ năm 2012 đến nay, Bộ Quốc phòng hỗ trợ 27 tỷ đồng cho phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn vay vốn không tính lãi, phát triển kinh tế gia đình, góp phần xây dựng gia đình “No ấm, tiến bộ, hạnh phúc”, giảm tỷ lệ phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn trên tổng số phụ nữ toàn quân từ 2,12% (năm 2011) xuống còn 1,59% (6 tháng đầu năm 2020). Tuyển dụng nữ công dân vào phục vụ tại ngũ đạt 66,67%, tỷ lệ nữ được tuyển chọn quân nhân chuyên nghiệp từ công nhân và viên chức quốc phòng đạt 43,8% so với tổng quân số được tuyển chọn; tỷ lệ nữ được nâng loại, chuyển nhóm lương là 42,93%(4).
Trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo, hầu hết cán bộ nữ đều có bản lĩnh chính trị vững vàng; trình độ năng lực lãnh đạo, chỉ huy quản lý và trình độ chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ đã có bước phát triển mới theo yêu cầu nhiệm vụ. Cấp ủy, chỉ huy các đơn vị đã quan tâm đến việc tạo nguồn, bồi dưỡng cán bộ nữ. Năm 2019, toàn quân có 99,8% cán bộ nữ có trình độ cao đẳng, đại học trở lên, trong đó 38,8% có trình độ sau đại học (tăng 4,5% so với năm 2018); 0,76% cán bộ nữ được cử đi đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ tại các học viện, nhà trường; có 49 học viên nữ tốt nghiệp các học viện, nhà trường được phong quân hàm sĩ quan; 102 học sinh nữ được tuyển sinh vào các học viện, trường sĩ quan; 4 nữ học viên được tuyên dương học viên giỏi, tốt nghiệp thủ khoa…(5). Giai đoạn 2016 - 2021, tổng số lượt phụ nữ được đào tạo, bồi dưỡng là 24.216, trong đó, trên đại học là 2.023; đại học là 3.786; cao đẳng là 2.711; trung cấp là 3.362; đào tạo nghề, đào tạo lại là 12.244(6).
Trên lĩnh vực y tế, lãnh đạo, chỉ huy các cấp thường xuyên quan tâm, chủ động phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể liên quan triển khai thực hiện Cuộc vận động “Phụ nữ thực hiện vệ sinh an toàn thực phẩm vì sức khỏe gia đình và cộng đồng”, “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch”. Quân y các đơn vị trong toàn quân đẩy mạnh các hoạt động truyền thông, giáo dục, tư vấn về chăm sóc sức khỏe sinh sản, phòng, chống tai nạn thương tích; nâng cao chất lượng tư vấn, khám sức khỏe định kỳ kết hợp khám, điều trị các bệnh phụ khoa; chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ. Giai đoạn 2011 - 2020, 100% phụ nữ được tiếp cận các dịch vụ y tế và khám sức khỏe định kỳ; chất lượng chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ ngày càng được nâng lên.
Trên lĩnh vực văn hóa và thông tin, thường xuyên quan tâm, bảo đảm bình đẳng giới giữa nam, nữ cán bộ, nhân viên, chiến sĩ, công nhân viên chức và lao động quốc phòng trong tham gia các hoạt động và hưởng thụ văn hóa, tiếp cận, sử dụng các nguồn thông tin. Định kỳ hằng tháng, Trung tâm Phát thanh - Truyền hình Quân đội, Báo Quân đội nhân dân và các cơ quan truyền thông của đơn vị trong toàn quân có ít nhất 1 chuyên mục, chuyên đề, bài viết tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về bình đẳng giới, về phòng, chống bạo lực gia đình; với các chuyên đề “Hậu phương của chúng ta”; Kênh Truyền hình Quốc phòng Việt Nam đã có chuyên mục “Nữ quân nhân” tuyên truyền về bình đẳng giới và gương phụ nữ tiêu biểu trên các lĩnh vực công tác. Biên soạn, phát hành nhiều sản phẩm truyền thông: 50 số Thông tin Phụ nữ Quân đội với 450.000 cuốn; 430.000 tờ rơi, 7.600 áo truyền thông tuyên truyền về “Tháng hành động vì bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới” cấp phát cho Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ và tổ chức hội phụ nữ trong toàn quân; không có các sản phẩm văn hóa, thông tin mang định kiến giới(7).
Trên lĩnh vực gia đình, những năm qua, Bộ Quốc phòng đã chỉ đạo các đơn vị tổ chức tốt các hoạt động truyền thông phòng, chống bạo lực gia đình và tệ nạn xã hội hưởng ứng “Tháng hành động quốc gia phòng, chống bạo lực gia đình”, “Tháng hành động vì bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới”. Phụ nữ quân đội đã xây dựng kế hoạch và triển khai tổ chức thực hiện hiệu quả phong trào thi đua “Phụ nữ quân đội đoàn kết - sáng tạo, hoàn thành tốt nhiệm vụ, xây dựng gia đình hạnh phúc, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”, gắn với đẩy mạnh việc thực hiện Cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch”; phòng, chống, ngăn chặn hiệu quả vụ việc bạo lực trong các gia đình quân nhân. Đến nay, số vụ việc vi phạm Luật Hôn nhân gia đình, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, Luật Trẻ em trong quân đội đều giảm; không có phụ nữ trong quân đội là nạn nhân của các vụ buôn bán người.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc thực hiện bình đẳng giới trong quân đội hiện nay còn những vấn đề đặt ra: Định kiến về giới, phân biệt đối xử nam nữ vẫn tồn tại làm cho phụ nữ gặp không ít khó khăn, thiệt thòi trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội, cơ hội được bồi dưỡng đào tạo, thăng tiến, đề bạt; tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, coi nhẹ phụ nữ vẫn tồn tại trong quan hệ công tác và đời sống sinh hoạt quân nhân; một số cấp ủy đảng, tổ chức chỉ huy, các đoàn thể chưa thực sự quan tâm đến công tác phụ nữ và bồi dưỡng, phát triển cán bộ nữ; các chế độ, chính sách, mục tiêu quốc gia của Nhà nước đã ban hành vì sự tiến bộ của phụ nữ có lúc, có nơi chưa triển khai đồng bộ; số phụ nữ quân đội tham gia cấp ủy, lãnh đạo, quản lý còn ít; trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề của chị em nhìn chung chưa cao; công tác tuyên truyền về bình đẳng giới có lúc chưa thường xuyên, chậm đổi mới nội dung, hình thức. Mặt khác, có không ít phụ nữ quân đội còn tư tưởng an phận, ngại phấn đấu, làm việc cầm chừng, tư tưởng tự ti, mặc cảm vì định kiến, sinh con thứ ba... Nguyên nhân chủ yếu của hạn chế trên thuộc về công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cán bộ các cấp và ý thức tự giác của một số phụ nữ về vấn đề này chưa cao.
2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện bình đẳng giới trong quân đội trong thời gian tới
Một là, tạo sự chuyển biến trong nhận thức của các chủ thể bình đẳng giới. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao trách nhiệm của chính quyền các cấp trong thực hiện, chính sách, pháp luật về bình đẳng giới”(8). Điều kiện tiên quyết đối với việc thực hiện bình đẳng giới trong quân đội trước hết phải nâng cao nhận thức của các chủ thể. Theo đó, cần thực hiện tốt một số nội dung cơ bản, như quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Nhà nước, quân đội và cấp ủy các cấp về vấn đề thực hiện bình đẳng giới; thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi về bình đẳng giới cho mọi đối tượng trong quân đội; xây dựng và hoàn thiện cơ chế phối hợp hoạt động giữa các chủ thể hướng vào nâng cao hiệu quả thực hiện vấn đề bình đẳng giới; thông qua hoạt động thực tiễn chuyên môn ở đơn vị để bồi dưỡng ý thức, thái độ, trách nhiệm các tổ chức, cá nhân trong nâng cao hiệu quả thực hiện bình đẳng giới.
Hai là, thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp thực hiện bình đẳng giới trong quân đội. “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, tham mưu có hiệu quả công tác cán bộ nữ,... góp phần quan trọng trong sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”(9). Đây là giải pháp mang tính đột phá nhằm trang bị những yếu tố cốt lõi cho sự hình thành và phát triển khả năng thực hiện bình đẳng giới trong quân đội. Lãnh đạo, chỉ huy các cấp phải căn cứ tình hình, đặc điểm của nữ quân nhân, nhiệm vụ của của từng loại hình đơn vị để xây dựng kế hoạch, bồi dưỡng nâng cao khả năng thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, cũng như kiến thức về bình đẳng giới. Đồng thời, trên cơ sở kế hoạch, đối tượng, nội dung đã xác định để hoạt động bình đẳng giới mang lại hiệu quả, cần đa dạng hình thức, biện pháp tiến hành. Hoạt động này có thể diễn ra ở nhiều cấp độ, nhiều hình thức khác nhau ứng với mỗi đối tượng, mỗi hoàn cảnh cụ thể. Bên cạnh đó, bản thân nữ quân nhân phải nỗ lực, tích cực, chủ động trải nghiệm thực tiễn quân sự.
Ba là, phát huy tính tích cực, tự giác, tự học tập, tự rèn luyện phấn đấu vươn lên của phụ nữ quân đội. Đây là giải pháp có ý nghĩa trực tiếp quyết định đến hiệu quả công tác bình đẳng giới trong quân đội, bởi phụ nữ quân đội vừa là chủ thể, vừa là đối tượng trong quá trình này. Bên cạnh tác động của những điều kiện khách quan thuận lợi, để quá trình này đạt hiệu quả mong muốn, đòi hỏi phải phát huy cao độ tính tích cực, tự giác, tự học tập, rèn luyện của từng cá nhân phụ nữ quân đội. Đây chính là nhân tố chủ quan trực tiếp quyết định đến chất lượng và hiệu quả của toàn bộ quá trình thực hiện bình đẳng giới trong quân đội. Nếu phụ nữ quân đội không phát huy tính tích cực, tự giác, tự giáo dục, rèn luyện, phấn đấu vươn lên thì khó có thể hoàn thiện các phẩm chất cần thiết của bản thân và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Theo đó, cần thực hiện tốt một số nội dung, biện pháp, như thường xuyên giáo dục, xây dựng động cơ, xu hướng nghề nghiệp đúng đắn; tích cực học tập, tự rèn luyện không ngừng nâng cao phẩm chất, năng lực; quan tâm, tạo điều kiện để phụ nữ quân đội tự học tập, tự rèn luyện, tự phát triển và thường xuyên tổ chức các phong trào thi đua và tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong các hoạt động thực tiễn quân sự…/.
__________________________________________________
(1) Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 - 2030 (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 28/NQ-CP, ngày 3.3.2021, của Chính phủ).
(2), (4), (5), (7) Bộ Quốc phòng, Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ: Báo cáo tổng kết thực hiện Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới trong quân đội giai đoạn 2011-2020, Hà Nội, 2020.
(3), (6), (9) Tổng cục Chính trị: Báo cáo của Tổng cục Chính trị tại Đại hội đại biểu phụ nữ quân đội lần thứ VII, ngày 13.12.2021.
(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, T.II, tr.140.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Cộng sản ngày 12.7.2022
Bài liên quan
- Báo chí Việt Nam và Cu Ba chia sẻ kinh nghiệm, hứa hẹn mở ra sự hợp tác tương lai
- Mấy vấn đề cơ chế tài chính đáp ứng phục vụ nhiệm vụ chiến lược của Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay
- Kỷ niệm 30 năm thành lập Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông (1994 - 2024): Những kỷ niệm khó quên
- Tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đối với công tác văn hóa, văn nghệ trên địa bàn Thành phố
- Về con đường đi tới của Việt Nam, quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ và tầm nhìn cho kỷ nguyên mới
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 3 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Với cộng đồng 54 dân tộc anh em, Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa đa dạng, phong phú, có những nét riêng, trở thành tài sản quý giá làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam độc đáo, đặc sắc. Giữ gìn và bảo vệ các giá trị di sản văn hóa truyền thống chính là góp phần củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc - một sức mạnh nội sinh to lớn và vĩ đại, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.
Báo chí Việt Nam và Cu Ba chia sẻ kinh nghiệm, hứa hẹn mở ra sự hợp tác tương lai
Báo chí Việt Nam và Cu Ba chia sẻ kinh nghiệm, hứa hẹn mở ra sự hợp tác tương lai
Việt Nam - Cuba là biểu tượng sáng ngời về tình đoàn kết hữu nghị quốc tế. Hai dân tộc đã sát cánh bên nhau trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Tình hữu nghị đặc biệt này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Fidel Castro vun đắp qua nhiều thế hệ và trở thành một tài sản vô giá của cả hai dân tộc.
Mấy vấn đề cơ chế tài chính đáp ứng phục vụ nhiệm vụ chiến lược của Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay
Mấy vấn đề cơ chế tài chính đáp ứng phục vụ nhiệm vụ chiến lược của Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay
Học viện Báo chí và Tuyên truyền (Học viện) là đơn vị sự nghiệp công lập, có chức năng đào tạo đại học, sau đại học các ngành lý luận chính trị, báo chí, truyền thông, kinh tế, xây dựng Đảng, quản lý nhà nước, quản lý xã hội…, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ các cấp. Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, Học viện cần có cơ chế tài chính phù hợp nhằm huy động tối đa nguồn lực tài chính và phân phối, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, tạo động lực thúc đẩy hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Trong những năm qua, thực hiện cơ chế tài chính ở Học viện đã có những chuyển biến tích cực, các nguồn thu đảm bảo chi, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của Học viện. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu nguồn lực tài chính cho chiến lược phát triển giai đoạn mới của Học viện, công tác thực hiện cơ chế quản lý tài chính cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện.
Kỷ niệm 30 năm thành lập Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông (1994 - 2024): Những kỷ niệm khó quên
Kỷ niệm 30 năm thành lập Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông (1994 - 2024): Những kỷ niệm khó quên
Trong 33 năm làm việc ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền, tôi có 30 năm gắn bó với Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, cho dù tôi không phải trực tiếp biên chế công tác tại đây.
Tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đối với công tác văn hóa, văn nghệ trên địa bàn Thành phố
Tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đối với công tác văn hóa, văn nghệ trên địa bàn Thành phố
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác văn hóa, văn nghệ, trong những năm qua, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đã quan tâm lãnh đạo công tác này, qua đó đạt được một số kết quả khá quan trọng, đóng góp vào sự phát triển chung về kinh tế - văn hóa - xã hội của Thành phố. Trên cơ sở phân tích thực trạng lãnh đạo công tác văn hóa, văn nghệ của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, bài viết đề xuất một số giải pháp giúp tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy đối với công tác này trong thời gian tới.
Bình luận