Thực trạng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Tây Nguyên
Tây Nguyên là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội và quốc phòng an ninh của nước ta. Từ sau ngày giải phóng miền Nam (30.4.1975), Đảng và Nhà nước luôn quan tâm lãnh đạo, chăm lo đầu tư xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên nhằm “Xây dựng Tây Nguyên giàu về kinh tế, vững về chính trị, mạnh về quốc phòng, an ninh; tiến tới xây dựng Tây Nguyên thành vùng kinh tế động lực”.
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu, yêu cầu đặt ra cho Đảng bộ, chính quyền, nhân dân các dân tộc trên địa bàn Tây Nguyên là phải phát huy được cao nhất sức mạnh các nguồn lực, trong đó nguồn lực con người giữ vai trò quyết định nhất.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kế, dân số Tây Nguyên năm 1995 là 3.384,8 nghìn người, đến năm 2002 là 4.407,2nghìn người. Như vậy, trong vòng 7 năm, dân số đã tăng thêm hơn 1triệu người. Cơ cấu dân số theo giới tính: nam là 2.230,5 nghìn người; nữ là 2.176,7 nghìn người. Cơ cấu dân số theo thành thị và nông thôn: thành thị là 1.124,5 nghìn người; nông thôn là 3.192,7nghìn người(1).
Dân số đủ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế thường xuyên là 2.168.704 người, trong độ tuổi lao động là 2.069.319 người. Trong đó, dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế thường xuyên ở thành thị 555.350 người; ở nông thôn là 1.586.719 người, trong độ tuổi lao động là 1.153.696 người(2).
Có thể nói, tốc độ tăng dân số và lực lượng lao động của Tây Nguyên so với cả nước là khá cao và hơn nữa, tốc độ đó diễn ra một cách liên tục trong suốt thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hoá. Theo dự báo, đến năm 2010, dân số Tây Nguyên vào khoảng 5.757,7 nghìn người.
Sự gia tăng dân số ở Tây Nguyên trong những năm qua và thời gian tới, nếu xét từ góc độ cung cấp số lượng lao động thì đây là một thuận lợi. Song, bên cạnh đó, cũng có không ít khó khăn khi nền sản xuất kém phát triển không đáp ứng đủ việc làm cho người lao động. Tình trạng thiếu việc làm là một trong những nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội: cờ bạc, rượu chè, ma tuý, mại dâm... gây mất ổn định chính trị, trật tự xã hội trên địa bàn.
Tây Nguyên bước vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá khi cơ cấu kinh tế về cơ bản vẫn là nền kinh tế thuần nông. Có thể nói, nền kinh tế ở Tây Nguyên hiện nay vẫn chưa thoát khỏi yếu tố “tam nông”: nông thôn, nông nghiệp, nông dân. Điều này thể hiện ở chỗ: Số người lao động trong lĩnh vực nông - lâm nghiệp chiếm tỷ lệ cao 75,64%; trong khi đó, lao động trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng cơ bản là 6,33%, lĩnh vực dịch vụ là 18,02%.
Về chất lượng của nguồn lực, ở đây là trình độ học vấn và trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động ở Tây Nguyên hiện nay, cụ thể như sau:
Về trình độ học vấn
Số lao động chưa biết chữ là 9,76%, số chưa tốt nghiệp tiểu học là 17,41%, đã tốt nghiệp tiểu học 32,85%, đã tốt nghiệp phổ thông cơ sở 16,19%. Điều đáng nói là, số lao động chưa biết chữ ở Tây Nguyên hiện nhiều hơn gấp 2,6 lần so với cả nước, chỉ thấp hơn so với Tây Bắc (18,09%) và cao hơn so với các vùng còn lại trong cả nước.
Về trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động ở Tây Nguyên
Số liệu được đưa ra ở bảng trên cho thấy, trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động ở Tây Nguyên còn nhiều bất cập. Tỷ lệ lao động được đào tạo mới chiến 13,73%, số không có trình độ chuyên môn kỹ thuật chiếm tới 86,27%.
Cụ thể là, trong số lao động được đào tạo, số người có trình độ sơ cấp, có chứng chỉ nghề là 27.193 người (3,17%), công nhân kỹ thuật có bằng 39.639 người (1,83%), trung học chuyên nghiệp 13.277 người (3,18%)(3).
Cơ cấu trình độ của lực lượng lao động không chỉ thấp mà còn bất hợp lý. Tỷ lệ lao động ở nông thôn chiếm hơn 70% lực lượng lao động của toàn vùng, trong khi đó số không có trình độ chuyên môn kỹ thuật chiếm tới 93,85%; sơ cấp/ có chứng chỉ nghề 0,64%, công nhân kỹ thuật không có bằng là 1,46%; công nhân kỹ thuật có bằng 0,7%, trung học chuyên nghiệp là 2,27%, cao đẳng - đại học và trên đại học là 1,08%(4).
Thực tiễn cho thấy, không riêng gì ở Tây Nguyên mà nói chung, ở nước ta đang tồn tại một nghịch lý là, hình như ai không học hành, không có bằng cấp chuyên môn gì thì làm nông dân, còn những người có học, có trình độ chút ít thì bỏ nghề nông làm việc khác. Trong khi đó, ở các nước tiên tiến trên thế giới, cụ thể như ở Đan Mạch, Nhà nước chỉ cho phép người nào có học, có bằng cấp ngành công nghiệp mới được làm nông dân. Người nông dân ở các nước tiên tiến, nhờ có trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, biết vận dụng, áp dụng các tri thức khoa học vào trong quá trình sản xuất, nhờ đó vừa nâng cao được năng suất, chất lượng sản phẩm, vừa bảo vệ được môi trường sinh thái. Nếu người nào vi phạm sẽ bị Nhà nước thu hồi giấy phép hành nghề nông dân.
Trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, nguồn nhân lực (lực lượng lao động) trong các cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp đóng một vai trò rất quan trọng. Bên cạnh việc đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế, các cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp còn góp phần rất quan trọng trong việc tạo việc làm và thu nhập cho đông đảo người lao động. Thế nhưng, chất lượng của lực lượng lao động trong các cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp, theo kết quả điều tra lần thứ 2 được tiến hành trên phạm vi cả nước vào thời điểm 1.7.2002 (trừ lĩnh vực nông - lâm nghiệp), cho thấy thực trạng nguồn nhân lực ở đây như sau:
Toàn vùng vào thời điểm năm 2002 có 119.449 cơ sở với lao động là 417.760 người. Trình độ chuyên môn được đào tạo của người lao động như sau: tiến sĩ 146 người (0,034%), thạc sĩ 760 người (0,18%); trình độ cử nhân, kỹ sư 38.474 người (9,2%), trình độ cao đẳng 18.944 (4,53%), trình độ trung học chuyên nghiệp 64.516 người (12,9%) (trong số 54.203 người có trình độ chuyên môn kỹ thuật, số người có tay nghề bậc cao là 7.564 người (1,8%), trình độ khác là 240.717 người (57,62%))(5).
Về trình độ của giám đốc/ người phụ trách cơ sở, tổng số là 119.449 người. Cơ cấu trình độ chuyên môn cụ thể là: tiến sĩ 27 người (0,02%), thạc sĩ 93 người (0,07%), cử nhân, kỹ sư (1,2%), trung học chuyên nghiệp 6.853 người (5,73%), công nhân kỹ thuật 5.522 người (4,6%), trình độ khác 9.920 người (83.65%)(6).
Những năm gần đây, công nghệ thông tin phát triển rất mạnh, việc sử dụng mạng máy tính (LAN, WAN), sử dụng Internet, lập các trang thông tin điện tử (Website) hoặc giao dịch qua thư tín, thương mại điện tử... đã tham gia nhiều hơn vào mọi công việc như những công cụ tiên tiến để nâng cao hiệu quả hoạt động, giảm bớt công sức của con người. Chính vì vậy, việc sử dụng, áp dụng các công cụ đó vào quá trình lao động là một đòi hỏi tất yếu. Đây là một hướng đi đã được chỉ rõ trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX: "Sớm phổ cập tin học và mạng thông tin quốc tế (Internet) trong nền kinh tế và đời sống xã hội". Tuy nhiên, mức độ ứng dụng công nghệ thông tin của người lao động ở nước ta nói chung, ở Tây Nguyên nói riêng còn thấp. Điều này được thể hiện qua các số liệu như sau: Trong tổng số 119.449 cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp mới có 4.782 cơ sở có sử dụng máy tính chiếm tỷ lệ 4%, còm 96% cơ sở chưa có máy tính. Bình quân số máy tính trên một cơ sở là 0,16 chiếc, máy tính trên 100 lao động là 4,6% máy.
Trong số các cơ sở có sử dụng máy tính, cơ sở kết nối mạng LAN là 624 cơ sở chiếm tỷ lệ 14,39%; số lao động biết sử dụng máy tính là 32.944 người, tỷ lệ 7,89%(7).
Thực trạng trên đây do nhiều nguyên nhân, theo chúng tôi, gồm một số nguyên nhân chính như sau:
Thứ nhất, do đặc điểm về điều kiện địa lý, xã hội khiến cho trình độ phát triển kinh tế vùng Tây Nguyên còn thấp hơn so với nhiều vùng trong cả nước. Tây Nguyên có địa hình đa dạng và phức tạp với nhiều dãy núi cao và trung bình, nhiều cao nguyên tương đối bằng phẳng và thung lũng xen kẽ nhau. Diện tích vùng núi cao chiếm 53% diện tích tự nhiên, diện tích các cao nguyên trung bình ở độ cao 300 - 800m chiếm 36,5%, diện tích đồng bằng, thung lũng chiếm 10,5%. Địa hình trên đây dẫn đến khó khăn lớn cho Tây Nguyên là có một mùa khô kéo dài, nhiều vùng thiếu nước nghiêm trọng, hạn chế lớn đối với sản xuất và đời sống của dân cư trong vùng.
Bên cạnh đó, hậu quả nặng nề của chiến tranh đã để lại cho Tây Nguyên những khó khăn lớn về cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội. Trước giải phóng (1975), vùng Tây Nguyên có tới hơn 70% dân số mù chữ. Từ sau ngày giải phóng đến nay, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, cùng với sự cố gắng vượt bậc của nhân dân trong vùng, tỷ lệ người biết chữ ngày càng cao, song vẫn còn 9,76% số người chưa biết chữ (cả nước hiện còn 3,74% số người chưa biết chữ)
Hai là, Tây Nguyên là một vùng cơ cấu dân cư không thuần nhất, trình độ sản xuất, đời sống và dân trí có sự chênh lệch rất xa. Với hơn 4,5 triệu người, Tây Nguyên có hơn 40 dân tộc, trong đó người Kinh chiếm gần 70%, đồng bào dân tộc ít người chiếm tỷ lệ cao như thế khiến cho trình độ dân trí của vùng còn rất thấp so với mặt bằng chung của cả nước. ở vùng dân tộc ít người còn tồn tại nhiều phong tục, tập quán lạc hậu ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Đây thực sự là một khó khăn, thách thức lớn cho Tây Nguyên trên con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Ba là, nền kinh tế Tây Nguyên đang ở điểm xuất phát thấp, vẫn còn in đậm dấu ấn của nền kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp; thu nhập của người dân trong vùng chỉ đứng cao hơn so với Tây Bắc, kém hơn so với các vùng còn lại trong cả nước. Chính vì vậy, người dân chưa quan tâm đúng mức tới sự nghiệp giáo dục - đào tạo, chưa có điều kiện để đầu tư thoả đáng cho việc học hành của chính mình và con em mình. Bên cạnh đó, trong những năm vừa qua, tuy Nhà nước đã có sự quan tâm rất nhiều đến Tây Nguyên, nhưng một số chủ trương, cơ sở, cơ chế vẫn chưa đủ mạnh để thu hút những lao động có trình độ chuyên môn, có tay nghề cao đến làm việc, ổn định cuộc sống lâu dài, cống hiến tài năng, sức lực của mình cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá của Tây Nguyên. Thậm chí, ngay cả con em của nhân dân các dân tộc Tây Nguyên được cử đi học ở các trường cao đẳng, đại học ở các thành phố lớn sau khi tốt nghiệp ra trường cũng không muốn trở về địa phương, muốn ở lại thành phố để có cơ hội việc làm và điều kiện học tập, nâng cao trình độ.
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá, vấn đề quan trọng, cấp bách đối với Tây Nguyên hiện nay là phải có nguồn nhân lực đủ về số lượng, mạnh về chất lượng. Muốn vậy, phải thực hiện đồng bộ các giải pháp, trước hết, hướng giải quyết cơ bản là đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động. Chỉ có như thế mới tạo ra những điều kiện vật chất cần thiết cho việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đến lượt nó, với chất lượng mới, nguồn nhân lực sẽ trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Tây Nguyên hiện nay rất cần phải đẩy nhanh tốc độ cơ giới hoá, điện khí hoá, hiện đại hoá sản xuất nông - lâm nghiệp. Chỉ có như vậy mới nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, nâng cao mức sống, thu nhập của người dân, tạo điều kiện cho họ có cơ hội, khả năng nâng cao trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, vận dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ vào quá trình sản xuất.
Cần đẩy mạnh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, xây dựng cơ bản; tăng tỷ trọng du lịch, dịch vụ;giảm tỷ trọng nông - lâm nghiệp. Trong phát triển công nghiệp, chú trọng phát triển công nghiệp có sử dụng nguồn nhiên liệu tại chỗ như: Chế biến cà phê, cao su, mía đường, công nghiệp thực phẩm, vật liệu xây dựng, giấy, sành sứ..., khuyến khích phát triển sản xuất tiểu thủ công nghiệp ở cả khu vực thành thị và nông thôn. Tập trung phát triển công nghiệp với quy mô thích hợp, ưu tiên việc ứng dụng công nghệ đòi hỏi ít vốn nhưng tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, khôi phục, mở rộng quy mô các ngành nghề truyền thống, đẩy nhanh tốc độ xoá đói, giảm nghèo nhất là ở các vùng kém phát triển, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người, khu căn cứ địa cách mạng.... có như thế mới nâng cao được chất lượng nguồn nhân lực.
Chú trọng phát triển hệ thống giáo dục - đào tạo, từng bước nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục để nâng cao trình độ dân trí, đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất nâng cao đời sống. Đảm bảo cho tất cả trẻ em trong độ tuổi đi học được đến trường. Tăng mức đầu tư cho giáo dục và đào tạo bằng nhiều nguồn vốn huy động khác nhau: ngân sách nhà nước, ngân sách địa phương, các tổ chức, cá nhân... để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, trường lớp, trang thiết bị dạy và học đầy đủ cho học sinh, vùng sâu, vùng xa. Đa dạng hoá các loại hình trường lớp, coi trọng đồng thời cả ba mặt: mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả. Mở rộng quy mô, nâng cao năng lực đào tạo cho các trường trung học chuyên nghiệp và trường dạy nghề để đào tạo mới và đào tạo lại nghề cho người lao động. Tăng cường năng lực cho các trường Đại học Đà Lạt, Đại học Tây Nguyên trở thành trung tâm vừa đào tạo, vừa nghiên cứu khoa học phục vụ phát triển Tây Nguyên. Có chính sách đãi ngộ thoả đáng để thu hút lực lượng lao động có trình độ cao đến với Tây Nguyên ổn định cuộc sống, phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của vùng. Cùng với việc nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, phải coi trọng nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Tình trạng thể lực của người dân ở Tây Nguyên hiện nay còn thấp so với các vùng trong cả nước. Do đó, phải quan tâm đến sự nghiệp y tế để làm tốt công tác chăm sóc sức khoẻ cho cộng đồng. Đảm bảo tất cả các xã đều có cơ sở y tế, có đủ y, bác sĩ cho tất cả các trạm y tế xã, phường; khống chế và tiến tới loại trừ tất cả các bệnh dịch sốt rét, lao, phong, bướu cổ và thanh toán bệnh bại liệt cho nhân dân./.
_________________________________
(1) Tổng cục Thống kê (2003), Niên giám Thống kê, Nxb.Thống kê, Hà Nội, tr.30, tr.32, tr.36, tr.38.
(2) Tổng cục Thống kê (2004), Số liệu thống kê xã hội những năm đầu thế kỷ XXI, Nxb. Thống kê, Hà Nội, tr.11, tr.14.
(3) Bộ Lao động Thương binh - Xã hội (2003), Số liệu thống kê lao động - việc làm ở Việt Nam 2002, Nxb. Lao động, Hà Nội, tr.215, tr.216.
(4) Bộ Lao động Thương binh - Xã hội, Sđd, tr 220
(5) Tổng cục Thống kê (2004), Tập 1, Kết quả điều tra cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp 2002, Nxb. Thống kê, Hà Nội, tr.146, tr.147.
(6) Tổng cục Thống kê (2002), Kết quả điều tra cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp 2002, Sđd, tr.164, tr.165.
(7) Tổng cục Thống kê, Kết quả điều tra cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp 2002, Sđd, tr179, 185,206.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền số 4 (tháng 7+8)/2005
Bài liên quan
- Báo chí Việt Nam và Cu Ba chia sẻ kinh nghiệm, hứa hẹn mở ra sự hợp tác tương lai
- Mấy vấn đề cơ chế tài chính đáp ứng phục vụ nhiệm vụ chiến lược của Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay
- Kỷ niệm 30 năm thành lập Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông (1994 - 2024): Những kỷ niệm khó quên
- Tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đối với công tác văn hóa, văn nghệ trên địa bàn Thành phố
- Về con đường đi tới của Việt Nam, quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ và tầm nhìn cho kỷ nguyên mới
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 3 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Báo chí Việt Nam và Cu Ba chia sẻ kinh nghiệm, hứa hẹn mở ra sự hợp tác tương lai
Việt Nam - Cuba là biểu tượng sáng ngời về tình đoàn kết hữu nghị quốc tế. Hai dân tộc đã sát cánh bên nhau trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Tình hữu nghị đặc biệt này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Fidel Castro vun đắp qua nhiều thế hệ và trở thành một tài sản vô giá của cả hai dân tộc.
Báo chí Việt Nam và Cu Ba chia sẻ kinh nghiệm, hứa hẹn mở ra sự hợp tác tương lai
Báo chí Việt Nam và Cu Ba chia sẻ kinh nghiệm, hứa hẹn mở ra sự hợp tác tương lai
Việt Nam - Cuba là biểu tượng sáng ngời về tình đoàn kết hữu nghị quốc tế. Hai dân tộc đã sát cánh bên nhau trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Tình hữu nghị đặc biệt này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Fidel Castro vun đắp qua nhiều thế hệ và trở thành một tài sản vô giá của cả hai dân tộc.
Mấy vấn đề cơ chế tài chính đáp ứng phục vụ nhiệm vụ chiến lược của Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay
Mấy vấn đề cơ chế tài chính đáp ứng phục vụ nhiệm vụ chiến lược của Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay
Học viện Báo chí và Tuyên truyền (Học viện) là đơn vị sự nghiệp công lập, có chức năng đào tạo đại học, sau đại học các ngành lý luận chính trị, báo chí, truyền thông, kinh tế, xây dựng Đảng, quản lý nhà nước, quản lý xã hội…, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ các cấp. Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, Học viện cần có cơ chế tài chính phù hợp nhằm huy động tối đa nguồn lực tài chính và phân phối, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, tạo động lực thúc đẩy hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Trong những năm qua, thực hiện cơ chế tài chính ở Học viện đã có những chuyển biến tích cực, các nguồn thu đảm bảo chi, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của Học viện. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu nguồn lực tài chính cho chiến lược phát triển giai đoạn mới của Học viện, công tác thực hiện cơ chế quản lý tài chính cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện.
Kỷ niệm 30 năm thành lập Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông (1994 - 2024): Những kỷ niệm khó quên
Kỷ niệm 30 năm thành lập Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông (1994 - 2024): Những kỷ niệm khó quên
Trong 33 năm làm việc ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền, tôi có 30 năm gắn bó với Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, cho dù tôi không phải trực tiếp biên chế công tác tại đây.
Tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đối với công tác văn hóa, văn nghệ trên địa bàn Thành phố
Tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đối với công tác văn hóa, văn nghệ trên địa bàn Thành phố
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác văn hóa, văn nghệ, trong những năm qua, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đã quan tâm lãnh đạo công tác này, qua đó đạt được một số kết quả khá quan trọng, đóng góp vào sự phát triển chung về kinh tế - văn hóa - xã hội của Thành phố. Trên cơ sở phân tích thực trạng lãnh đạo công tác văn hóa, văn nghệ của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, bài viết đề xuất một số giải pháp giúp tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy đối với công tác này trong thời gian tới.
Bình luận