Tiếp tục phát huy vai trò lãnh đạo của Tỉnh uỷ Tây Ninh trong công tác cán bộ nữ trên địa bàn tỉnh
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ nữ, thúc đẩy bình đẳng giới và tạo điều kiện để phụ nữ phát huy vai trò trong sự nghiệp cách mạng. Trong "Di chúc", Người căn dặn: "Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ phụ nữ để ngày càng thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc, kể cả công việc lãnh đạo” (1).
Thực hiện lời dạy của Người, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ nữ đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn mới như: Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong đó nhấn mạnh việc xây dựng đội ngũ cán bộ nữ vững mạnh là yêu cầu khách quan và là nội dung quan trọng trong chiến lược công tác cán bộ của Đảng; Đại hội XII của Đảng cũng đề ra mục tiêu tăng tỷ lệ cán bộ lãnh đạo là nữ, cán bộ trẻ và cán bộ dân tộc thiểu số; Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đặt mục tiêu đến năm 2030 phải có cán bộ nữ trong ban thường vụ cấp ủy và tổ chức đảng các cấp, tỷ lệ nữ cấp ủy viên đạt từ 20-25%, và tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp đạt trên 35%; Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định: "Phát huy truyền thống, tiềm năng, thế mạnh và tinh thần làm chủ, khát vọng vươn lên của các tầng lớp phụ nữ. Xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế...".
Thấm nhuần lời dạy của Bác và các chủ trương của Đảng, tại Tây Ninh, thời gian qua, việc phát triển và nâng cao vai trò của cán bộ nữ trong các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và cộng đồng được Tỉnh uỷ đặc biệt quan tâm; đội ngũ cán bộ nữ ngày càng khẳng định được vai trò, vị thế trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt trong việc tham gia chính trị. Bài viết này tập trung phân tích thực trạng công tác cán bộ nữ trên địa bàn tỉnh Tây Ninh trong giai đoạn hiện nay, chỉ ra một số hạn chế, bất cập; đồng thời, đề xuất các giải pháp nhằm tiếp tục đẩy mạnh công tác cán bộ nữ trên địa bàn tỉnh, góp phần nâng cao hiệu quả công tác cán bộ và phát triển bền vững tỉnh nhà.
1. Thực trạng công tác cán bộ nữ trên địa bàn tỉnh Tây Ninh hiện nay
Theo cơ cấu tổ chức đảng bộ tỉnh, Tây Ninh có 09 đảng bộ cấp huyện trực thuộc Tỉnh ủy với 597 tổ chức cơ sở đảng, gồm 189 đảng bộ cơ sở và 408 chi bộ cơ sở; 18 đảng bộ bộ phận và 1.772 chi bộ trực thuộc(2). Số liệu mới nhất cho thấy, tổng số đảng viên của tỉnh đạt 38.869, chiếm 3,24% dân số, trong đó 14.703 đảng viên là nữ (37,83%)(3). Trong số 332 cán bộ Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý hiện nay, có 68 đồng chí nữ (20,48%)(4).
Để nâng cao về chất lượng, số lượng đội ngũ cán bộ nữ, Tỉnh uỷ, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã triển khai, quán triệt, ban hành nhiều chương trình, đề án và văn bản chỉ đạo, cụ thể hóa các chỉ đạo của Trung ương về công tác phụ nữ. Đặc biệt là cụ thể hóa Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị khóa X “về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” và Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 20/01/2018 của Ban Bí thư Trung ương Đảng “về tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới”; chỉ đạo thực hiện đồng bộ các giải pháp về công tác cán bộ nữ; quan tâm tạo nguồn cán bộ cán bộ nữ trẻ, nữ dân tộc thiểu số; thực hiện tốt các nguyên tắc bình đẳng giữa nam và nữ về độ tuổi trong quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm, luân chuyển đối với một số nhóm phụ nữ giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương, thực tiễn công tác. Qua đó, đội ngũ cán bộ nữ ngày càng nâng cao khả năng, đáp ứng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ ở mỗi giai đoạn. Kết quả của các giải pháp này thể hiện rõ nét trong các nội dung:
Đầu tiên là công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ nữ. Theo số liệu của Ban Tổ chức Tỉnh uỷ Tây Ninh, tỷ lệ cán bộ nữ quy hoạch các chức danh diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý nhiệm kỳ 2015 - 2020, 2020 - 2025 và 2025 - 2030 đạt trên 30%; cán bộ nữ cơ cấu và trúng cử ban chấp hành đảng bộ, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ sau cao hơn nhiệm kỳ trước; đảm bảo về trình độ chuyên môn nghiệp vụ và lý luận chính trị; nhiều cơ quan hành chính có 30% nữ trở lên có cán bộ chủ chốt là nữ (5).
Mặt khác, cán bộ nữ tham gia công tác lãnh đạo, quản lý ngày càng tăng, có 20% tham gia ban chấp hành đảng bộ cấp tỉnh; tỷ lệ này đối với cấp huyện và xã lần lượt là 21,31% (4,73%) và 30,46% (5,23%); giữ chức vụ cấp trưởng, cấp phó các sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh 37,5%; giữ chức vụ cấp trưởng, cấp phó các phòng, ban, đoàn thể cấp huyện 48,2%(6). Hầu hết các huyện, thị xã, thành phố có cán bộ nữ trong lãnh đạo chủ chốt. Ngoài ra, tỷ lệ nữ đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh là 28,85%, cấp huyện là 26,89%(7). Điều này minh chứng cho công tác quy hoạch cán bộ nữ của cấp uỷ trong tham gia cấp uỷ, hội đồng nhân dân các cấp đã có sự chuyển biến rõ nét, khắc phục tình trạng khép kín, đảm bảo cơ cấu, số lượng cán bộ trẻ, cán bộ nữ đảm bảo tỷ lệ quy định của Trung ương.
Bên cạnh đó, Tỉnh ủy đã chú trọng đến công tác đào tạo, bồi dưỡng và bố trí, sử dụng cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ nữ nhằm chuẩn hoá và nâng cao chất lượng cán bộ; quan tâm đào tạo cán bộ diện quy hoạch gắn với phát hiện, bồi dưỡng, trọng dụng, phát huy nhân tài để xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của địa phương; khuyến khích cán bộ tham gia đào tạo các lớp sau đại học.
Việc bổ nhiệm, luân chuyển và giới thiệu cán bộ cũng được thực hiện một cách đồng bộ và có hệ thống, đảm bảo mỗi cán bộ đều được phân công công việc phù hợp với trình độ, năng lực và sở trường của bản thân, hướng đến mục tiêu là xây dựng đội ngũ cán bộ nữ không chỉ đảm bảo về số lượng mà còn có chất lượng và cơ cấu hợp lý. Tính từ năm 2015 đến nay, Ban Tổ chức Tỉnh ủy đã tham mưu Ban Thường vụ Tỉnh ủy luân chuyển 24 đồng chí cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ quản lý, trong đó có 08 đồng chí nữ (tỷ lệ 33,33%) để rèn luyện, thử thách, đào tạo, bồi dưỡng nhằm tạo nguồn cán bộ nữ để giới thiệu các chức vụ lãnh đạo, quản lý của tỉnh; có 79 cán bộ nữ được điều động, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, giới thiệu ứng cử, tái cử; 07 cán bộ nữ tham gia cấp ủy tỉnh; 04 cán bộ nữ tham gia Ban Thường vụ Tỉnh ủy; có 1.384/4.076 lượt cán bộ nữ được bồi dưỡng, cập nhật kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ; 364/1.021 lượt đào tạo cao cấp lý luận chính trị; 2.661/5.648 lượt đào tạo trung cấp lý luận chính trị(8).
Đánh giá chung hiện nay, đội ngũ cán bộ nữ của tỉnh cơ bản đã có sự trưởng thành về mọi mặt, có phẩm chất chính trị vững vàng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị được nâng lên. Nhiều chị đang giữ các cương vị lãnh đạo chủ chốt của tỉnh cũng như ở các cấp, các ngành và được quy hoạch vào các vị trí phù hợp.
Ngoài ra, để triển khai các nghị quyết và chỉ thị của Đảng cũng như các chính sách, pháp luật của Nhà nước liên quan đến phụ nữ, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ chỉ đạo các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện nhiều hoạt động nhằm thúc đẩy bình đẳng giới và hỗ trợ phụ nữ. Cụ thể: Chỉ thị 06-CT/TU, ngày 18/8/2016 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về công tác cán bộ nữ trong tình hình mới và các chương trình, kế hoạch, đề án cụ thể của từng ngành, từng lĩnh vực; trong đó trọng tâm là việc đẩy mạnh tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận trong cộng đồng; khuyến khích đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh cũng như hỗ trợ việc làm cho lao động, đặc biệt là phụ nữ; thực hiện nhiều giải pháp hỗ trợ định hướng nghề nghiệp, đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho nữ lao động nông thôn; tập hợp, thu hút, hỗ trợ nữ công nhân.
Cùng với đó, các cấp Hội Phụ nữ đã chủ động tham mưu trong công tác cán bộ nữ. Hằng năm, các cấp hội trong tỉnh xây dựng kế hoạch giám sát việc thực hiện các chủ trương về công tác cán bộ nữ, kịp thời kiến nghị, đề xuất với cơ quan thẩm quyền. Đặc biệt, Hội tích cực giám sát cấp ủy, chính quyền trong công tác chuẩn bị nhân sự cho đại hội, đề xuất bổ sung cán bộ nữ có tâm và tầm tại các đơn vị có tỷ lệ nữ thấp, có phương án kịp thời bổ sung cán bộ nữ theo tỷ lệ được giao.
Có thể thấy, Tỉnh ủy Tây Ninh đã lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức triển khai tốt việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác cán bộ nữ; tạo điều kiện hỗ trợ phụ nữ tỉnh nhà thực hiện quyền bình đẳng trong các lĩnh vực, nhất là lĩnh vực chính trị. Những chính sách đúng đắn trong phát triển công tác cán bộ nữ, từ đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, bổ nhiệm đến việc quy định tỷ lệ tham chính, đã giúp nâng cao cả về số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ nữ tại địa phương.
Đội ngũ cán bộ nữ cũng đã phát huy tốt vai trò lãnh đạo, quản lý tại các cơ quan, đơn vị; luôn ý thức rõ trách nhiệm, chủ động khắc phục khó khăn, tích cực học tập nâng cao trình độ, năng lực công tác. Nhiều cán bộ nữ có tư duy đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, sẵn sàng nhận nhiệm vụ do tổ chức phân công; tích cực tham gia xây dựng và thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương và của tỉnh. Họ đã lãnh đạo, chỉ đạo và tham gia hiệu quả vào các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị tại địa phương, góp phần quan trọng vào thành công chung của Đảng bộ tỉnh.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác cán bộ nữ nói chung và việc phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ nữ trên địa bàn tỉnh vẫn còn những hạn chế như:
Một số cấp ủy cơ sở, người đứng đầu vẫn chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của công tác cán bộ nữ, thiếu tin tưởng vào khả năng, năng lực của cán bộ nữ, dẫn đến chưa mạnh dạn trong việc quy hoạch, bồi dưỡng và bố trí cán bộ nữ vào các chức danh lãnh đạo, quản lý.
Mặc dù tỷ lệ cán bộ nữ trong các vị trí lãnh đạo, quản lý có tăng hơn nhưng vẫn còn chênh lệch đáng kể so với các cán bộ là nam giới. Công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ nữ giữ các vị trí lãnh đạo, quản lý ở một số cơ quan, đơn vị, địa phương còn gặp nhiều khó khăn; thiếu những giải pháp mang tính chiến lược; còn khép kín, thiếu sự liên thông, gắn kết, chưa đảm bảo quy định về tỷ lệ nữ trong quy hoạch.
Cán bộ nữ thường tập trung ở các cơ quan Hội đồng nhân dân, các tổ chức chính trị - xã hội, các lĩnh vực ngành nghề như giáo dục, y tế, trong khi ở các ngành kỹ thuật, khoa học công nghệ, tỷ lệ phụ nữ tham gia còn thấp. Điều này dẫn đến sự mất cân đối trong cơ cấu cán bộ nữ giữa các ngành.
Định kiến giới và gánh nặng gia đình cũng là một trong những hạn chế phải kể tới. Phụ nữ thường phải cân bằng giữa công việc và trách nhiệm gia đình, gây áp lực và hạn chế khả năng tham gia các hoạt động chính trị, xã hội. Định kiến giới và tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn còn tồn tại, ảnh hưởng đến cơ hội thăng tiến của cán bộ nữ.
Để khắc phục những hạn chế này, cần có sự quan tâm và lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát hơn nữa của Tỉnh ủy để các cấp ủy đảng, chính quyền và toàn xã hội tạo điều kiện, cơ hội cho phụ nữ phát triển và tham gia vào các vị trí lãnh đạo, quản lý.
2. Giải pháp đẩy mạnh công tác cán bộ nữ trên địa bàn tỉnh
Một là, tiếp tục quán triệt và triển khai thực hiện tốt sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về Nghị quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị, Chỉ thị số 21-CT/TW, ngày 20/01/2018 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá XII); thực hiện hiệu quả Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 - 2030; nâng cao nhận thức toàn diện về bình đẳng giới, công tác phụ nữ và khả năng của phụ nữ cũng như sự cần thiết của phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý xã hội; tiếp tục thu hẹp khoảng cách giới, tạo điều kiện, cơ hội để phụ nữ và nam giới bình đẳng trong tham gia, thụ hưởng thành quả trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và phát huy vai trò của cán bộ nữ trong các cấp uỷ, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị.
Hai là, tiếp tục phát huy vai trò của người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị trong công tác cán bộ nữ; thể hiện cụ thể trong việc chủ động và có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo rà soát, đánh giá để đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sắp xếp cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ người dân tộc thiểu số vào các chức danh có cơ cấu tham gia cấp ủy. Thực hiện đồng bộ các khâu trong công tác cán bộ từ tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, đề bạt cán bộ nhằm thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ vào hoạt động chính trị theo đúng quy định và yêu cầu công tác cán bộ nữ của tỉnh.
Ba là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong quá trình thực hiện công tác cán bộ, nhất là công tác cán bộ nữ đối với cấp uỷ, địa phương, đơn vị; Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc tham gia giám sát, phản biện xã hội về chính sách liên quan đến phụ nữ và công tác cán bộ nữ.
Nhiệm vụ trọng tâm là kiểm tra, giám sát công tác lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện các quy định về xây dựng đội ngũ cán bộ; đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả trong công tác cán bộ, đặc biệt là việc thực hiện các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước về cán bộ nữ trong các khâu quản lý cán bộ như: tuyển chọn, bố trí, phân công, điều động, luân chuyển, đánh giá cán bộ; quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ; khen thưởng, kỷ luật cán bộ. Đồng thời, kiểm tra giám sát việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, các biểu hiện suy thoái đạo đức, lối sống của cán bộ nữ, nhất là cán bộ nữ chủ chốt theo Quy định số 124-QĐ/TW ngày 2/2/2018 của Ban Bí thư; việc kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ theo nội dung Quy định số 114-QĐ/TW ngày 11/7/2023 của Bộ Chính trị.
Bốn là, tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ thông qua xây dựng các chương trình đào tạo, bồi dưỡng phù hợp, giúp cán bộ nữ nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ hội nhập và phát triển.
Năm là, nâng cao vị thế và uy tín chính trị của Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Tây Ninh trong thời kỳ mới.Hội phụ nữ tỉnh cần thể hiện vai trò nòng cốt trong việc chăm lo tốt hơn nữa cho phụ nữ để họ thực hiện tốt hơn vai trò của mình trong gia đình và ngoài xã hội; thực hiện tốt hơn nữa sứ mệnh đoàn kết, tập hợp các tầng lớp phụ nữ trên địa bàn vì hạnh phúc của phụ nữ; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, hướng mạnh về cơ sở, đặc biệt là vùng nông thôn, biên giới, đồng bào dân tộc thiểu số; chăm lo đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của hội viên, phụ nữ, phát huy vai trò chủ động tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước về chủ trương, chính sách liên quan đến phụ nữ; thực hiện tốt chức năng giám sát và phản biện xã hội; đa dạng hóa các hình thức tập hợp để phát triển hội viên trong mọi lĩnh vực nhằm nâng cao vị thế và uy tín chính trị của Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh.
Việc triển khai đồng bộ các giải pháp trên sẽ góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ nữ đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới, đồng thời thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị và quản lý nhà nước, đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của tỉnh, của đất nước./.
____________________________
(1) Hồ Chí Minh và 5 bảo vật quốc gia, Nxb. Thông tin và Truyền thông, 2014, trang 262.
(2), (3) Tỉnh uỷ Tây Ninh, Báo cáo Tổng kết công tác đảng năm 2024.
(4), (5), (6), (7), (8) Tỉnh uỷ Tây Ninh, Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng 05 năm, nhiệm kỳ 2020-2025.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Tỉnh ủy Tây Ninh (2024), Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng năm 2024.
2. Tỉnh ủy Tây Ninh (2025), Báo cáo Tổng kết công tác xây dựng Đảng 05 năm, nhiệm kỳ 2020-2025.
3. Tỉnh ủy Tây Ninh (2021), Báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện Chỉ thị 06-CT/TU, ngày 20/7/2021 về Tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội các cấp.
4. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (2022), Nghị quyết Đại hội Đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2022-2027.
5. Tỉnh ủy Tây Ninh (2021), Chỉ thị 06-CT/TU, ngày 20/7/2021 về Tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội các cấp.
6. Quyết định số 1893/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt Đề án bồi dưỡng cán bộ, công chức Hội liên hiệp Phụ nữ các cấp và Chi hội trưởng Phụ nữ giai đoạn 2019 – 2025.
7. Ủy ban Nhân dân tỉnh Tây Ninh (2020), Quyết định 844/QĐ-UBND phê duyệt Kế hoạch bồi dưỡng cán bộ, công chức Hội Liên hiệp Phụ nữ (Hội LHPN) các cấp và Chi hội trưởng Phụ nữ giai đoạn 2020 – 2025 trên địa bàn tỉnh.
8. Tỉnh ủy Tây Ninh (2022), Chỉ thị số 25-CT/TU, ngày 25/2/2022 về Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới.
9. Lê Tâm (2021), Thúc đẩy bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý, Tạp chí Xây dựng Đảng, ngày 18/7/2021.
10. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2023), Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Quốc gia Phát huy vai trò của Phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ mới.
11. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Tây Ninh (2024), Báo cáo sơ kết giữa nhiệm kỳ Nghị quyết Nghị quyết Đại hội Phụ nữ tỉnh Tây Ninh lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2021 – 2026.
12. Đảng bổ tỉnh Tây Ninh (2023), Báo cáo sơ kết 05 năm thực hiện Chỉ thị số 21-CT/TW, ngày 20/01/2018 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới
13. Tỉnh ủy Tây Ninh (2023), Tham luận Phát huy vai trò đội ngũ cán bộ nữ và việc thực hiện chính sách đối với các nhóm phụ nữ đặc thù, Hội Thảo “Phát huy vai trò đội ngũ cán bộ nữ và việc thực hiện chính sách đối với các nhóm phụ nữ đặc thù” khu vực miền Nam.
14. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Tây Ninh (2021), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Hội LHPN tỉnh trình Đại hội đại biểu Phụ nữ tỉnh nhiệm kỳ 2021 - 2026, Tây Ninh.
15. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2022), Văn kiện Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2022-2027, Hà Nội.
16. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2022), Điều lệ Hội LHPN Việt Nam, Hà Nội.
17. Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
18. Nghị quyết số 28/NQ-CP của Chính phủ: Ban hành Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 – 2030
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông điện tử
Bài liên quan
- Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
- Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
- Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
- Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
- Quản lý hình ảnh về phụ nữ dân tộc thiểu số Việt Nam trên các sản phẩm báo ảnh tại Thông tấn xã Việt Nam hiện nay
Xem nhiều
-
1
[Video] Dấu ấn Cách mạng Tháng Tám qua những hiện vật lịch sử
-
2
Những yêu cầu và nguyên tắc phát triển báo chí – truyền thông trong kỷ nguyên mới
-
3
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
-
4
Truyền thông đại chúng trong kỷ nguyên số: động lực đổi mới mô hình phát triển xã hội Việt Nam hiện nay
-
5
Tác động của quảng cáo sản phẩm trên mạng xã hội đến hành vi mua sắm của học sinh trung học phổ thông Hà Nội
-
6
Báo chí với xây dựng văn hóa số ở Việt Nam hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao – Nhân tố then chốt trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới ở Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứTư và quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức diễn ra mạnh mẽ, việc xây dựng lực lượng sản xuất mới trở thành yêu cầu tất yếu đối với sự phát triển bền vững của Việt Nam. Trong đó, nguồn nhân lực chất lượng cao có vai trò then chốt, quyết định khả năng tiếp thu, ứng dụng và sáng tạo khoa học – công nghệ, thúc đẩy năng suất lao động, đổi mới mô hình tăng trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Bài viết tập trung làm rõ vấn đề phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay - nhân tố then chốt trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới ở nước ta.
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
Trong suốt hơn hai thập kỷ đầu thế kỷ XXI, tên của Tổng thống Vladimir Putin đã trở thành biểu tượng gắn liền với tiến trình phát triển và chuyển mình của Liên bang Nga. Từ một quốc gia đối mặt với khủng hoảng kinh tế - chính trị nghiêm trọng sau khi Liên Xô tan rã, nước Nga dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Putin đã từng bước khôi phục ổn định, nâng cao vị thế quốc tế và củng cố bản sắc quốc gia. Dù vẫn còn không ít tranh cãi, không thể phủ nhận rằng Tổng thống Vladimir Putin đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử nước Nga hiện đại như một nhà lãnh đạo có ảnh hưởng lớn lao và lâu dài. Bài viết được thực hiện với mục đích phân tích các giai đoạn cầm quyền của ông, từ đó làm rõ những đóng góp, lựa chọn chiến lược và quyết sách của Ông đối với vận mệnh quốc gia. Qua đó, góp phần lý giải vì sao Tổng thống Vladimir Putin được xem là “người sẽ cứu nước Nga” trong thời kỳ chuyển giao và định hình bản sắc, quyền lực quốc gia hậu Xô Viết.
Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Công cuộc tinh gọn bộ máy nhà nước là một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm hiện thực hóa mục tiêu xây dựng nền hành chính nhà nước hiện đại, hiệu lực, hiệu năng, hiệu quả, phục vụ nhân dân. Trong tiến trình đó, công tác cán bộ đóng vai trò trung tâm, bởi cán bộ chính là người tổ chức và thực thi cải cách. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, công tác cán bộ hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, chưa thực sự tương xứng với yêu cầu đổi mới bộ máy nhà nước. Bài viết tiếp cận vấn đề từ nền tảng lý luận Mác, Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn kiện Đảng để phân tích những vấn đề lý luận, thực tiễn trong đổi mới công tác cán bộ, từ đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu cải cách hệ thống chính trị trong bối cảnh mới.
Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
Trong bối cảnh chuyển đổi số y tế đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn quốc, một số bệnh viện tuyến trung ương đã bước đầu ứng dụng truyền thông số hiệu quả trong tư vấn tâm lý – xã hội, kết nối cộng đồng và vận động nguồn lực, tuy nhiên, phần lớn bệnh viện tuyến tỉnh, huyện chưa có điều kiện triển khai đầy đủ. Bài viết đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm tích hợp truyền thông số vào hoạt động công tác xã hội (CTXH) tại bệnh viện, góp phần định hướng phát triển CTXH bệnh viện theo hướng chuyên nghiệp, công bằng và thích ứng với bối cảnh số hóa y tế đến năm 2030.
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
Theo thống kê trong giai đoạn từ 2013 – 2023 cho thấy độ tuổi kết hôn trung bình của người dân đang có xu hướng tăng(1). Vì vậy, nhóm tác giả đã thực hiện nghiên cứu nhằm làm rõ những nhân tố ảnh hưởng tới hành vi này tại Việt Nam. Bài nghiên cứu chỉ ra sự thay đổi trong độ tuổi kết hôn của người dân Việt Nam, đồng thời phân tích rõ ảnh hưởng của những nhân tố như trình độ học vấn, nền tảng gia đình, địa lý, chi phí sinh hoạt, thu nhập, nghề nghiệp và truyền thông tới việc trì hoãn kết hôn, thông qua dữ liệu từ cuộc khảo sát gồm 736 người trong độ tuổi từ 18 – 35, trải rộng khắp các vùng miền của Việt Nam. Qua đó, nhóm tác giả nêu lên một số đánh giá về tác động của hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ tới sự phát triển của kinh tế - xã hội. Sau cùng, nhóm tác giả đề xuất giải pháp để giải quyết vấn đề trì hoãn kết hôn của người trẻ Việt Nam hiện nay.
Bình luận