Tư duy lý luận
Cơ sở tự nhiên của tư duy đó là bộ óc con người và quá trình phản ánh hiện thực khách quan bởi bộ óc con người. Còn cơ sở xã hội của tư duy đó là lao động và ngôn ngữ. Trong đó, cơ sở xã hội đóng vai trò quyết định đến sự hình thành và phát triển của tư duy. Về vấn đề này, Ph.Ăngghen đã có nhận xét như sau: “chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải chỉ một mình giới tự nhiên, với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của tư duy con người, và trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta đã học cải biến tự nhiên”(1).
Ở thời kỳ đầu, khi đời sống của con người còn phụ thuộc vào giới tự nhiên bên ngoài, “một giới tự nhiên thù địch đối lập và không hiểu nổi đối với họ”(từ dùng của Ph.Ăngghen), hiểu biết của con người về thế giới xung quanh còn hạn chế thì con người chỉ có thể hình thành được một ít kinh nghiệm về một số lĩnh vực nào đó có liên quan trực tiếp đến cuộc sống hàng ngày của họ mà thôi. Do đó ý thức của con người lúc này “cũng mang tính động vật như chính đời sống xã hội ở giai đoạn ấy; đó là một ý thức quần cư đơn thuần”(2).
Nhưng khi mà lực lượng sản xuất phát triển (trước hết là công cụ lao động đã có những cải tiến nhất định), năng suất lao động xã hội ngày một cao, sản phẩm xã hội đã có dư thừa, phân công lao động xuất hiện, xã hội hình thành lớp người chuyên lao động trí óc, đó cũng là lúc tư duy loài người từng bước phát triển, con người có khả năng khái quát hóa, trừu tượng hóa các sự vật hiện tượng riêng lẻ để xây dựng nên hệ thống khái niệm, phạm trù, rút ra những quy luật. So với giai đoạn thấp của thời đại mông muội, nhận thức của con người đã đạt đến một trình độ cao hơn về chất, tư duy lý luận, tư duy khoa học ra đời. C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết rằng: “Phân công lao động chỉ trở thành phân công lao động thực sự từ khi xuất hiện sự phân chia thành lao động vật chất và lao động tinh thần. Bắt đầu từ lúc đó,ý thức có thểthực sự tưởng tượng rằng nó là một cái gì khác chứ không phải là ý thức về thực tiễn hiện có, rằng nó có thể thực sựđại biểu cho cái gì đó mà không đại biểu cho một cái gì hiện thực cả; bắt đầu từ lúc đó, ý thức có khả năng tự giải thoát khỏi thế giới và chuyển sang xây dựng lý luận “thuần tuý”, thần học, triết học, đạo đức, v.v..”(3).
Tư duy lý luận là quá trình con người phản ánh hiện thực khách quan một cách gián tiếp, mang tính trừu tượng và khái quát cao bằng hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật. Ở đó, chủ thể nhận thức sử dụng ngôn ngữ và các thao tác tư duy để nắm bắt các mối liên hệ mang tính bản chất, tìm ra các quy luật vận động nội tại tiềm ẩn trong khách thể nhận thức của con người.
Tư duy lý luận có những đặc trưng cơ bản sau: Một,sự xuất hiện của tư duy lý luận gắn liền với hoạt động thực tiễn của con người. Cùng với sự phát triển của sản xuất, của trao đổi và các mối quan hệ xã hội khác, các hành động và thao tác trí óc của con người ngày càng đa dạng, phong phú và phức tạp hơn, nhờ đó tư duy lý luận từng bước xuất hiện và phát triển năng lực của mình. Hai,tư duy lý luận phản ánh hiện thực khách quan một cách gián tiếp, là sự sản sinh ra những tri thức mới trên cơ sở những tri thức kinh nghiệm đã tích lũy được trong quá trình nhận thức. Những tri thức lý luận được duy trì và hoạt động thông qua hệ thống khái niệm, phạm trù, quy luật lôgic. Ba,tư duy lý luận sử dụng các phương pháp nhận thức, như: lịch sử và lôgic; phân tích và tổng hợp; quy nạp và diễn dịch; trừu tượng hóa và cụ thể hóa v.v.. và làm cho các phương pháp này trở thành nội dung lôgic bên trong của sự vận động tri thức để nhận thức hiện thực khách quan. Bốn,đối tượng mới của tư duy lý luận là những vấn đề mới do thực tiễn đặt ra. Tư duy lý luận phải có nhiệm vụ trả lời những câu hỏi - đặc biệt là những vấn đề bức xúc - mà cuộc sống đặt ra cho con người và xã hội loài người.
So với tư duy kinh nghiệm, tư duy lý luận đóng một vai trò hết sức to lớn trong nhận thức và cải tạo thế giới. Nhờ có tư duy lý luận khoa học mà con người mới phát hiện ra được các quy luật vận động và phát triển của hiện thực khách quan, hướng sự vận động đó vào phục vụ lợi ích của con người. Ph.Ăngghen chỉ rõ rằng: “một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận”(4).
Tư duy lý luận có thể là khoa học nhưng cũng có thể không khoa học. Chỉ những tri thức lý luận nào phản ánh đúng bản chất, vạch ra được mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng; chỉ ra được quy luật, xu hướng vận động, phát triển v.v.. của hiện thực khách quan (của tự nhiên, xã hội) thì đó mới là tư duy lý luận khoa học.
Trong thời đại ngày nay, tư duy lý luận khoa học là tư duy lý luận mácxít. Về thực chất, tư duy lý luận mácxít là tư duy biện chứng duy vật khoa học (cả trong tự nhiên lẫn trong xã hội) - một hình thái tư duy được hình thành trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn, những tri thức khoa học mà loài người đã đạt được từ xưa đến nay và luôn luôn được vận dụng một cách tiện lợi vào thực tiễn sinh động, phong phú để không ngừng bổ sung, hoàn thiện và phát triển.
Xuất phát từ tình hình thực tế của xã hội Việt Nam trong những thập niên 80 thế kỷ XX; xuất phát từ bản chất cách mạng và khoa học của học thuyết Mác; đứng trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đòi hỏi chúng ta “phải đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy”, coi đổi mới tư duy là khâu “đột phá” cho toàn bộ quá trình đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tại Đại hội VI (12-1986), Đảng ta khẳng định: “Để tăng cường sức chiến đấu và năng lực tổ chức thực tiễn của mình, Đảng phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác”(5). Nhờ chọn đúng khâu đột phá mà Đảng ta đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, thách thức và “đạt đượcnhững thành tự to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”(6).
Trong những năm qua, mặc dù chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận có bước được nâng lên. Công tác tư tưởng được coi trọng và tăng cường, góp phần tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội. Tuy vậy, so với yêu cầu, nhiệm vụ mới của cách mạng Việt Nam, thì “Chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận chưa cao... Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới”(7). Để khắc phục tình trạng trên, tại Đại hội XII, Đảng ta xác định một trong những nhiệm vụ trước mắt là: “Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ thống các quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp các luận cứ khoa học, lý luận cho việc hoạch định, phát triển đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”(8).
__________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 1.2017
(1), (4) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tâp, t.20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.720, 489.
(2), (3) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, tr.44, 45.
(5) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ VI,Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1987, tr.124.
(6), (7), (8) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,Văn phòng Trung ương Đảng,
Hà Nội, 2016, tr.65, 192-193, 20.
PGS, TS Trần Sỹ Phán
Viện Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Nguồn: http://lyluanchinhtri.vn
Bài liên quan
- Phát triển lực lượng sản xuất chất lượng mới ở Việt Nam hướng tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa
- Nhân sinh quan Phật giáo với việc xây dựng lối sống cho học sinh trung học phổ thông ở Việt Nam hiện nay
- Nhận thức đúng về giá trị dân chủ trong điều kiện đảng duy nhất cầm quyền ở Việt Nam
- Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
- Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
Xem nhiều
-
1
Một số giải pháp xử lý thông tin giả, sai lệch, xuyên tạc tác động đến dư luận xã hội ở Việt Nam hiện nay
-
2
Vai trò của cấp ủy cơ sở tại tỉnh Điện Biên trong thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021-2025: thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng
-
3
Nâng cao hiệu quả quản lý thông tin hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông trên báo mạng điện tử Việt Nam
-
4
Quản trị truyền thông tiếp thị tích hợp của các trung tâm đào tạo công nghệ thông tin tại Việt Nam
-
5
Giải pháp nâng cao chất lượng thông tin về chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào dân tộc thiểu số trên báo mạng điện tử ở Việt Nam hiên nay
-
6
Tăng cường quản lý công chức cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh ở Đông Nam Bộ hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Diễn ngôn truyền thông về “Vành đai, Con đường”: So sánh giữa Trung Quốc và Đông Nam Á
Kể từ khi được khởi xướng vào năm 2013, Sáng kiến “Vành đai, Con đường” (BRI) đã trở thành một trong những chủ đề quan trọng trong quan hệ quốc tế và diễn ngôn truyền thông toàn cầu. Nghiên cứu cho thấy, truyền thông Trung Quốc chủ yếu thông qua các kênh chính thống và sự kiện truyền thông được hoạch định để xây dựng một diễn ngôn tích cực, nhất quán, nhấn mạnh các khía cạnh “hợp tác cùng thắng”, “cộng đồng chia sẻ tương lai” và các thành tựu kinh tế vĩ mô. Ngược lại, truyền thông Đông Nam Á thể hiện một bức tranh phức tạp và đa chiều, với thái độ dao động từ ủng hộ đến hoài nghi, dè dặt. Các chủ đề chính bao gồm lợi ích kinh tế cụ thể, tác động xã hội tại địa phương, các vấn đề về chủ quyền, bẫy nợ và sự cân bằng quan hệ với các cường quốc khác. Từ những phân tích này, bài viết đưa ra một số gợi mở chiến lược cho báo chí, truyền thông Việt Nam trong việc xây dựng một diễn ngôn độc lập, cân bằng và hiệu quả về BRI nhằm phục vụ tốt nhất lợi ích quốc gia.
Phát triển lực lượng sản xuất chất lượng mới ở Việt Nam hướng tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Phát triển lực lượng sản xuất chất lượng mới ở Việt Nam hướng tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp 4.0, với trọng tâm là số hóa, trí tuệ nhân tạ và phát triển bền vững, “lực lượng sản xuất mới” đang tái định hình con đường phát triển kinh tế của các quốc gia. Là một nền kinh tế mới nổi ở Đông Nam Á, Việt Nam đã tận dụng lợi thế về lao động, các hiệp định thương mại tự do (như RCEP) và vị trí chiến lược để đẩy nhanh việc tiếp nhận sự dịch chuyển chuỗi cung ứng, trở thành một trung tâm trong khu vực về các lĩnh vực như sản xuất điện tử, dệt may. Trong sự nghiệp đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu nổi bật về tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân và đổi mới thể chế. Tuy nhiên quá trình phát triển của Việt Nam vẫn đối mặt với rất nhiều thách thức. Bài viết này sẽ phân tích tiến trình phát triển của Việt Nam dưới góc nhìn “lực lượng sản xuất chất lượng mới”, đồng thời đề xuất định hướng phát triển lực lượng sản xuất mới nhằm thúc thúc đẩy tăng trưởng, đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam.
Nhân sinh quan Phật giáo với việc xây dựng lối sống cho học sinh trung học phổ thông ở Việt Nam hiện nay
Nhân sinh quan Phật giáo với việc xây dựng lối sống cho học sinh trung học phổ thông ở Việt Nam hiện nay
Bài viết tập trung phân tích khả năng vận dụng nhân sinh quan Phật giáo trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông (THPT). Những giá trị cốt lõi của Phật giáo như tinh thần từ bi, chánh niệm, nhận thức về vô thường và nhân quả có thể trở thành nền tảng quan trọng để hình thành nhân cách, định hướng lối sống lành mạnh và xây dựng môi trường học đường nhân văn. Trên cơ sở đó, bài viết nhấn mạnh ý nghĩa giáo dục, xã hội và cá nhân của việc tích hợp các giá trị Phật giáo, đồng thời gợi mở những hướng đi cụ thể nhằm đưa đạo đức Phật giáo vào các hoạt động học tập và trải nghiệm. Qua đó, tác giả khẳng định tiềm năng của Phật giáo trong việc góp phần phát triển toàn diện học sinh, không chỉ về tri thức mà còn ở phương diện đạo đức và nhân cách.
Nhận thức đúng về giá trị dân chủ trong điều kiện đảng duy nhất cầm quyền ở Việt Nam
Nhận thức đúng về giá trị dân chủ trong điều kiện đảng duy nhất cầm quyền ở Việt Nam
Thời gian qua, không chỉ các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị xuyên tạc về chế độ dân chủ ở nước ta khi cho rằng “không có dân chủ trong chế độ đảng cộng sản duy nhất cầm quyền”, một số người trong nước cũng ngộ nhận, mơ hồ về luận điệu sai trái này. Vì vậy, việc làm sáng tỏ bản chất dân chủ không phụ thuộc vào chế độ đa đảng hay một đảng cầm quyền là việc làm cần thiết nhằm phòng ngừa biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị trong nội bộ.
Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Chiều 31/10, tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo sư, Tiến sỹ Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có buổi trao đổi một số nội dung về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc với các học viên Lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng đối với cán bộ quy hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV (Lớp 3).
Bình luận