Về tộc danh "Mán" trong bức thư Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Pleiku, tỉnh Gia Lai năm 1946
1. Hoàn cảnh ra đời
Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, đất nước ta bước sang trang sử mới của độc lập – tự do. Tuy nhiên, thực dân Pháp rất giỏi trong việc nghiên cứu và cai trị các dân tộc thiểu số bằng kiến thức dân tộc học - chính trị. Do đó, tại các khu vực đồng bào dân tộc thiểu số cư trú, chúng âm thầm tuyên truyền, vận động…để bà con không đi theo cách mạng, cản trở, quấy phá… các thành quả của chính quyền cách mạng non trẻ.
Để đập tan âm mưu chia rẽ dân tộc trong mưu đồ thiết lập các xứ “tự trị” của người Pháp, Trung ương Đảng và Bác Hồ đã có rất nhiều động thái kiên quyết thực hiện chủ trương đại đoàn kết dân tộc, trước hết ổn định tình hình vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Trong số các công việc ấy, tiêu biểu phải kể đến hai công việc hết sức quan trọng, góp phần ổn định tình hình an ninh, trật tự ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong suốt một thời gian dài là: thuyết phục Vương Chí Sình (vua Mèo) đi theo cách mạng, trở thành đại biểu Quốc hội khóa I và khẩn trương tổ chức Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Pleiku – Gia Lai vào ngày 19/4/1946.
Đại hội đã đón trên 1.000 đại biểu đại diện cho đồng bào các dân tộc thiểu số khu vực Tây Nguyên và các tỉnh đồng bằng Nam Bộ, Trung Bộ về tham dự. Thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư đến Đại hội để chúc mừng toàn thể đồng bào dân tộc thiểu số với tình cảm đặc biệt.
Kể từ đó đến nay, đã 77 năm trôi qua, rất nhiều người trong cán bộ và nhân dân từng thuộc lòng nội dung bức thư ngắn nhưng đầy đủ nội dung, chan chứa yêu thương, thắm tình đoàn kết mà Bác đã để lại cho cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam. Tuy nhiên, do chưa được giải thích cặn kẽ, tường minh nên hiện nay còn có người trong đồng bào Dao băn khoăn việc Bác gọi dân tộc “Mán” ở trong thư. Không ít người trong đồng bào cho rằng gọi tên “Mán” với mình là không trọng thị. Ở đây, chúng ta cần phân tích và đưa ra một sự lý giải tường minh để cộng đồng người Dao, cũng như các cộng đồng dân tộc thiểu số hiểu rõ bối cảnh cụ thể đã định hình và phổ biến tộc danh các cộng đồng dân tộc thiểu số tại thời điểm mà Bác Hồ gửi thư đến Đại hội.
2. Vấn đề tên gọi – tên tự gọi của người Dao và cách định danh của cộng đồng trong thời kỳ Cách mạng
Người Dao ở Việt Nam có dân số xếp thứ 9 trong thành phần cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam. Kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 cho biết, hiện người Dao có 891.151 người, cư trú tại 61 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố(1). Người Dao tự gọi mình là Kiềm Miền/Kìm Mùn (người ở rừng, núi). Tuy nhiên, đây là cách định danh có tính phiếm xưng, còn trong các văn bản, họ tự gọi mình là Dào Nhần (Dao Nhân, tức người Dao). Do điều kiện và lịch sử cư trú, trong quá trình cai trị ở vùng Đông Bắc Việt Nam, người Pháp tạm chia các dân tộc thiểu số thành 2 nhóm cư dân chính. Nhóm ở vùng thấp gọi là Thổ (người Tày, Nùng), nhóm ở vùng cao hơn gọi là Mán (người Dao), còn nhóm ở hẳn trên đỉnh núi cao được gọi là Mèo (Mông). Từ cách định danh của nhà cầm quyền, lâu dần, cộng đồng cư dân sở tại cũng gọi theo như một thói quen. Do cách gọi phổ biển tại thời điểm này, nên việc định danh tộc người là Mán đương nhiên được cộng đồng cùng hiểu là nhóm người cư trú tại khu vực núi cao, vùng sâu, rất hẻo lánh.
Các tài liệu ghi chép về cộng đồng người Dao ở Việt Nam giai đoạn trước và ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời đều gọi người Dao ngày nay là Mán. Chẳng hạn, trong hồi ký “Từ nhân dân mà ra” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp có nhiều đoạn ghi chép về người Mán như: “Ở vùng núi cao, vùng đồng bào Mán trắng, phong trào cũng phát triển mạnh… Đồng bào Mán trắng rất mừng rỡ khi gặp cán bộ Việt Minh”(2). Hoặc trong quá trình chuẩn bị tổng khởi nghĩa 19/8/1945, đồng chí Văn (Đại tướng Võ Nguyên Giáp) có đi qua các vùng Phủ Thông, Chợ Đồn thuộc tỉnh Bắc Kạn, tại đây khi thấy khí thế cách mạng đang lên cao, đồng chí đã ghi lại: “Đồng bào người Thổ cũng như người Mán rất tốt, đón tiếp cán bộ cách mạng với một nhiệt tình đặc biệt. Nhất là trên các bản người Mán ở dọc đỉnh núi phía Bắc, một vùng rẻo cao lúc nào cũng lấm tấm mưa, dù dưới chân núi trởi nắng. Đồng bào Mán đều tham gia Việt Minh, các chị phụ nữ cũng như các em nhi đồng đều thuộc lầu quyển Việt Minh Ngũ Tự Kinh tiếng Mán và nhiều bài ca cách mạng”(3).
Như vậy, có thể thấy rõ rằng, tên gọi Mán là tên gọi được cộng đồng cư trú cận kề cùng định danh về một dân tộc cụ thể trong quá trình hoạt động cách mạng từ thời kỳ Tiền khởi nghĩa.
Ở phương diện tác phẩm văn học, nhà văn Nam Cao trong thời kỳ công tác tại khu vực các xã Vi Hương, Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn cũng đã viết “Nhật ký ở rừng”, trong đó có đoạn: “Ngay sau cuộc họp, chúng tôi sửa soạn ba-lô lên Mán. Mán còn là một thế giới hoàn toàn bí mật. Ngay người Thổ cũng rất ít khi lên. Làng Thổ ở ngay dưới chân ngọn núi có làng Mán ở trên. Thế mà có những ông già Thổ ngoài sáu mươi chưa lên Mán một lần nào”(4).
Tổng hợp các ghi chép trên, có thể thấy ở giai đoạn này, người Tày, Nùng được gọi là Thổ và người Dao được gọi là Mán. Người ta cho rằng cách định danh này ít nhiều có hàm ý miệt thị bởi người Pháp trong quá trình cai trị. Do được định danh trong các công việc hành chính, nên lâu dần, cộng đồng đã quen và sử dụng luôn cách gọi này trong đời sống cộng đồng. Điều này càng rõ hơn khi ta đọc tác phẩm của nhà thơ dân tộc Dao – Bàn Tài Đoàn viết về giai đoạn này. Trong hồi ký “Cuộc đời của Đoàn”, tác giả viết: “Cho đến cuối năm 1943, thành lập được các ban xã, ban tổng, ban châu, ban khu. Ở bên Mán khắc thành lập một khu Mán, gọi là khu Quang Trung. Đàn ông, đàn bà đều có quyền vào các ban làm việc”(5).
Qua tác phẩm của nhà thơ dân tộc Dao – Bàn Tài Đoàn, chúng ta thấy rõ ngoài việc tự gọi mình trong nội bộ đồng tộc là Kiềm Miền/Kìm Mùn, khi ra ngoài, để tiện trong việc định danh, bà con cũng tự gọi mình là người Mán.
Từ những minh chứng cụ thể trên, chúng ta được biết rằng vào thời kỳ tiền khởi nghĩa và ngay sau khi cách mạng thành công, cộng đồng người Dao ở tại thời điểm này vẫn quen định danh mình là Mán. Tương tự vậy, người Tày, Nùng được gọi là Thổ. Đây là cách định danh tộc người phổ biến tại thời điểm đó.
3. Kết luận
Việc định danh tên gọi tộc người ở Việt Nam được các nhà dân tộc học nghiên cứu và thống nhất vào khoảng thời gian những năm 60-70 của thế kỷ trước. Nhưng để thống nhất toàn bộ thì phải đến cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 1979. Do đó, tại thời điểm 8 tháng sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, việc nghiên cứu và định danh tên gọi các dân tộc ở nước ta theo sự thống nhất chung chưa thể thực hiện được. Cho dù như vậy, việc tổ chức Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Pleiku – Gia Lai vào ngày 19/4/1946 chứng tỏ Đảng và Bác Hồ đã luôn đặc biệt quan tâm đến công tác dân tộc, chú trọng việc củng cố tình đoàn kết trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam ngay từ những ngày đầu thành lập nước. Ở trong bối cảnh ấy, tộc danh Dao chưa được cộng đồng biết đến như một định danh tộc người phổ biến mà nếu sử dụng trong văn phong đại chúng, cộng đồng các dân tộc sẽ không thể nhận biết được. Để dễ hiểu, dễ nhận biết trong đời sống, Bác Hồ đã dùng ngôn ngữ phổ biến nhất, cụ thể trong trường hợp này là tộc danh Thổ để chỉ các dân tộc Tày, Nùng và tộc danh Mán để chỉ dân tộc Dao. Với văn phong dễ hiểu và đặc biệt gần gũi, ấm áp, bức thư gửi đồng bào các dân tộc thiểu số tại Đại hội các dân tộc thiểu số Miền Nam ngày nay luôn được coi là một di sản quý báu mà Bác Hồ đã để lại cho cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam. Bất cứ ai trong đồng bào dân tộc thiểu số, mỗi khi nhắc đến bức thư này của Bác đều luôn bày tỏ tình cảm trân trọng và thiêng liêng đặc biệt.
______________________________________________________
(1) Tổng cục Thống kê: Kết quả Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2019.
(2), (3) Hồi ký cách mạng - Nhân dân ta rất anh hùng (1976), Nxb. Văn hóa, H., tr.91, 105.
(4) Nam Cao, Nhật ký ở rừng, https://www.gocnhin.net/cgi-bin/viewitem.pl?4161
(5) Bàn Tài Đoàn (2006), Tuyển tập thơ, văn, Nxb. Văn hóa dân tộc, H., tr.22.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông điện tử
Bài liên quan
- Giới thiệu Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông số tháng 10 năm 2025
- Cán bộ nữ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trước yêu cầu thay đổi: Tâm thế và khả năng thích nghi
- Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện chính sách nhà ở xã hội - Thực trạng và giải pháp
- Giải pháp tăng cường vai trò lãnh đạo của Tỉnh ủy Phú Thọ trong phát triển kinh tế hiện nay
- Thực trạng trải nghiệm định kiến giới của nữ sinh viên Hà Nội và một số khuyến nghị
Xem nhiều
-
1
Thông tin thích ứng với biến đổi khí hậu ở Đồng bằng sông Cửu Long trên truyền hình Việt Nam hiện nay
-
2
Trẻ tự kỷ trên báo chí: Từ hình ảnh “nạn nhân” đến người hùng - Một nghiên cứu phân tích khung truyền thông
-
3
Giáo dục liêm chính cho đội ngũ cán bộ, công chức nhằm phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay
-
4
Vai trò của lòng biết ơn trong truyền thông giáo dục tại các trường học: Từ góc độ lý thuyết
-
5
Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện chính sách nhà ở xã hội - Thực trạng và giải pháp
-
6
Giải pháp tăng cường vai trò lãnh đạo của Tỉnh ủy Phú Thọ trong phát triển kinh tế hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Tổ chức sự kiện truyền thông chính sách - từ lý luận đến thực tiễn Việt Nam trong kỷ nguyên số
Trong bối cảnh kỷ nguyên số, truyền thông chính sách thông qua các sự kiện đóng vai trò thiết yếu trong việc xây dựng đồng thuận xã hội và nâng cao hiệu quả quản trị công tại Việt Nam. Bài báo nghiên cứu hoạt động tổ chức sự kiện truyền thông chính sách bằng phương pháp hệ thống hóa cơ sở lý luận, phân tích kinh nghiệm quốc tế tiêu biểu và soi chiếu vào thực tiễn Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy, bên cạnh những thành tựu quan trọng trong việc ứng dụng công nghệ và mở rộng kênh đối thoại, tổ chức sự kiện vẫn còn đối mặt với các thách thức như tính hình thức, hạn chế về nguồn lực chuyên nghiệp và yếu kém trong khâu đo lường, đánh giá hiệu quả. Trên cơ sở đó, bài báo đề xuất các giải pháp toàn diện nhằm chuyên nghiệp hóa và nâng cao hiệu quả thực chất của hoạt động tổ chức sự kiện truyền thông chính sách, đáp ứng yêu cầu của một nền hành chính phục vụ trong kỷ nguyên số.
Giới thiệu Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông số tháng 10 năm 2025
Giới thiệu Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông số tháng 10 năm 2025
Đến hẹn lại lên, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông số tháng 10 ra mắt bạn đọc với nhiều bài viết giàu giá trị nghiên cứu khoa học và thực tiễn.
Cán bộ nữ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trước yêu cầu thay đổi: Tâm thế và khả năng thích nghi
Cán bộ nữ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trước yêu cầu thay đổi: Tâm thế và khả năng thích nghi
Trong bối cảnh đất nước đang bước vào giai đoạn phát triển mới với nhiều thay đổi mang tính căn bản và toàn diện, hệ thống Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cũng đang triển khai mạnh mẽ quá trình chuyển đổi nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và quản trị tổ chức. Quá trình này diễn ra ở nhiều chiều cạnh: từ cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động, văn hóa làm việc đến yêu cầu về năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ. Trong đó, đội ngũ nữ cán bộ, giảng viên, người lao động của Học viện giữ vai trò đặc biệt quan trọng, không chỉ là lực lượng nòng cốt trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn mà còn là những chủ thể tích cực tham gia kiến tạo môi trường làm việc đổi mới, nhân văn và phát triển bền vững. Trước yêu cầu thay đổi nhanh chóng, việc xây dựng tâm thế chủ động, nâng cao năng lực thích nghi và khả năng cân bằng của nữ cán bộ trở thành yếu tố then chốt, góp phần khẳng định vị thế của phụ nữ Học viện trong tiến trình chuyển đổi, đồng thời tạo nền tảng cho sự phát triển ổn định, lâu dài của đơn vị.
Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện chính sách nhà ở xã hội - Thực trạng và giải pháp
Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện chính sách nhà ở xã hội - Thực trạng và giải pháp
Trong quá trình đô thị hóa nhanh và áp lực dân số gia tăng, Thành phố Hồ Chí Minh đang đối mặt với một bài toán phức tạp: làm sao để đảm bảo chỗ ở phù hợp cho người dân, đặc biệt là các nhóm thu nhập thấp. Trong bối cảnh đó, tổ chức thực hiện chính sách nhà ở xã hội không chỉ là một nhiệm vụ hành chính đơn thuần, mà đã trở thành một sứ mệnh chiến lược, có ảnh hưởng sâu sắc đến mục tiêu phát triển đô thị bền vững, ổn định thị trường bất động sản và nâng cao chất lượng sống toàn diện. Trong khuôn khổ bài viết tập trung làm rõ những phương thức thực hiện cụ thể của chính quyền thành phố trong việc thực hiện mục tiêu này và đưa ra một số kiến nghị để nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách trong thời gian tới.
Giải pháp tăng cường vai trò lãnh đạo của Tỉnh ủy Phú Thọ trong phát triển kinh tế hiện nay
Giải pháp tăng cường vai trò lãnh đạo của Tỉnh ủy Phú Thọ trong phát triển kinh tế hiện nay
Phát triển kinh tế là một trong những nội dung then chốt, đột phá chiến lược luôn được Tỉnh ủy Phú Thọ chú trọng trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo. Trên cơ sở đó, bức tranh kinh tế của tỉnh đã có nhiều khởi sắc đáng kể, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những khó khăn nhất định, đòi hỏi cần có hệ thống giải pháp phù hợp và hiệu quả để kịp thời tháo gỡ, thúc đẩy phát triển bền vững.
llcttt1994dientu@gmail.com
024.38348033
Bình luận