Xuất bản Việt Nam trong thời kỳ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư: Cơ hội và thách thức
Tình hình xuất bản Việt Nam hiện nay
Trên cơ sở kết quả 10 năm thực hiện Chỉ thị số 42-CT/TW, của Ban Bí thư Trung ương khóa IX, “Về nâng cao chất lượng toàn diện của hoạt động xuất bản”, ngày 29.12.2016, Ban Bí thư ra Thông báo số 19-TB/TW, “Thông báo kết luận của Ban Bí thư về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 42-CT/TW của Ban Bí thư khóa IX về nâng cao chất lượng toàn diện của hoạt động xuất bản”. Thông báo kết luận chỉ rõ: “Hoạt động xuất bản đã có nhiều chuyển biến tích cực, giữ được định hướng chính trị, thích ứng với cơ chế thị trường, đáp ứng tốt hơn nhu cầu đọc của nhân dân, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nội dung, phương thức lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý hoạt động xuất bản có nhiều đổi mới, kịp thời khắc phục một số hạn chế, bất cập trong thực tiễn hoạt động xuất bản”. Ban Bí thư yêu cầu thực hiện nghiêm túc nhiều nội dung quan trọng, trong đó nhấn mạnh xác định rõ trách nhiệm của các cấp, các ngành, các địa phương để lĩnh vực xuất bản phát triển đúng định hướng, nhanh và bền vững, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế. Xây dựng hệ thống văn bản pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản; phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng các đề án, chương trình để phát triển ngành xuất bản trong thời kỳ mới. Chú trọng tăng cường phối hợp giữa các cơ quan chỉ đạo, quản lý hoạt động xuất bản trong công tác chỉ đạo, điều hành, quản lý nhà xuất bản, đồng thời kiện toàn tổ chức, hoàn thiện quy chế hoạt động của các nhà xuất bản, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng vị trí công tác, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu,... phát triển xuất bản điện tử.
Thực hiện quan điểm, chủ trương của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, đặc biệt là Luật Xuất bản năm 2012 và “Quy hoạch phát triển xuất bản, in, phát hành xuất bản phẩm đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” của Thủ tướng Chính phủ, ngành xuất bản có bước phát triển quan trọng. Hoạt động xuất bản có bước phát triển về quy mô, năng lực hoạt động, theo đó năm 2018 có 33,9 nghìn đầu sách với 372 triệu bản, tăng 18% về đầu sách và tăng 18,5% về bản sách so với năm 2017 (1). Nhiều bộ sách có giá trị cao thuộc các lĩnh vực, như sách nghiên cứu về chính trị, sách văn hoá - xã hội, sách khoa học - công nghệ, sách kinh tế và quản lý kinh tế trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế... được xuất bản. Nhiều nhà xuất bản kinh doanh hiệu quả và có lãi, điển hình như Nhà xuất bản Trẻ (13,700 tỷ đồng), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật (19,722 tỷ đồng), Nhà xuất bản Kim Đồng (30,350 tỷ đồng), Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam (104,793 tỷ đồng) (2). Năm 2019, doanh thu toàn ngành xuất bản đạt 2.775,127 tỷ đồng (tăng 10,7% so với năm 2018), nộp ngân sách 165,412 tỷ đồng (giảm 11,6% so với năm 2018) (3).
Lĩnh vực in ấn được quan tâm đầu tư phát triển, hiện đại hóa công nghệ; sản phẩm phong phú, đáp ứng nhu cầu của các đối tượng khác nhau. Quá trình cổ phần hóa, nhu cầu tăng trưởng của các ngành kinh tế đã tạo điều kiện cho một số doanh nghiệp in mở rộng đầu tư, trang bị máy móc, hiện đại hóa quy trình, nâng cao năng lực sản xuất, đáp ứng những đơn hàng có yêu cầu kỹ thuật, mỹ thuật cao. Mô hình tổ chức ngành in được sắp xếp lại. Năm 2019, cả nước có trên 1.900 cơ sở in công nghiệp (tăng 5,3% so với năm 2018) trong tổng số hơn 10.000 cơ sở in. Doanh thu ngành in đạt trên 96.000 tỷ đồng (tăng 5% so với năm 2018). Lợi nhuận ngành in đạt gần 8.000 tỷ đồng (tăng 4%), nộp ngân sách nhà nước 2.220 tỷ đồng (4).
Đối với lĩnh vực phát hành xuất bản phẩm, nhiều đơn vị có tốc độ phát triển nhanh, như các công ty cổ phần phát hành sách Thành phố Hồ Chí Minh, Thanh Hóa, Ninh Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An, Công ty cổ phần Văn hóa - Du lịch Gia Lai… Năm 2019, tổng số phát hành đạt 440 triệu bản (tăng 1,6% so với năm 2018), tổng doanh thu đạt 3.462 tỷ đồng (tăng 3% so với năm 2018) (5).
Hoạt động xuất nhập khẩu sách có bước phát triển. Thị trường sách được mở rộng thêm ở một số quốc gia: Mỹ, Nhật Bản và châu Âu, phát triển thêm thị trường mới như Italia, Trung Quốc, Singapore. Năm 2019, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu sách, báo đạt 27,45 triệu USD (tăng gần 4% so với năm 2018), trong đó nhập khẩu: 23,25 triệu USD, xuất khẩu: 4,2 triệu USD (6).
Trong những năm gần đây, xuất bản phẩm điện tử từng bước lan tỏa và ảnh hưởng lớn đến đời sống tinh thần của độc giả. Bạn đọc, khách hàng có nhiều cơ hội hơn để tiếp cận và chọn lọc thông tin, cũng như có nhiều hơn sự lựa chọn hàng hóa, dịch vụ, thương hiệu trên thị trường.
Công tác quảng bá, tổ chức hội chợ sách trong nước và tham gia hội chợ sách quốc tế được quan tâm, đầu tư. Nhận thức của các đơn vị xuất bản, phát hành sách và cơ quan quản lý nhà nước về vai trò, tầm quan trọng của công tác quảng bá sách đã có sự chuyển biến tích cực. Hoạt động quảng bá sách, đặc biệt là các hội chợ sách tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh thu hút độc giả thuộc mọi lứa tuổi. Đặc biệt, ngày sách Việt Nam hằng năm không chỉ bó hẹp ở một số trung tâm, thành phố lớn mà đã được mở rộng đến nhiều địa phương (Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ, Vũng Tàu) (7). Đồng thời, Việt Nam chủ động tham gia các hoạt động quảng bá sách, như Hội chợ sách quốc tế La Habana tại CuBa, tại Liên bang Nga; Hội chợ sách quốc tế tại Frankfurt, Đức; tổ chức giới thiệu sách Việt Nam tại Trung tâm Văn hóa Việt Nam tại Pháp và Cộng hòa Séc; tổ chức triển lãm sách tại Hoa Kỳ nhân sự kiện “Gặp gỡ Việt Nam”...
Đội ngũ cán bộ, nhân viên làm việc trong ngành xuất bản tiếp tục được tăng cường để thích ứng với quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Tính đến tháng 3-2018, có gần 1.300 biên tập viên trên cả nước được cấp chứng chỉ hành nghề biên tập. Đội ngũ cán bộ của ngành xuất bản từng bước tiếp cận với công nghệ tiên tiến, năng động, sáng tạo, có nhiều đóng góp cho sự phát triển của ngành xuất bản.
Cơ hội và thách thức đối với xuất bản Việt Nam trong thời gian tới
Cách mạng công nghiệp 4.0 được dự báo sẽ tác động trực tiếp và làm thay đổi toàn bộ “ngành công nghiệp tri thức”, từ cách tiếp cận thị trường, quy trình xuất bản, cách thức xuất bản, phương thức đọc, tiếp nhận từ phía độc giả, vấn đề bản quyền cho tới công tác quản lý xuất bản, văn hóa xuất bản (8). Thực tiễn cho thấy, Cách mạng công nghiệp 4.0 với sự kết hợp các công nghệ trên nền tảng internet, trí thông minh nhân tạo…, tạo ra những thay đổi đột phá trong toàn bộ công tác xuất bản, trong đó có bước nhảy vọt về tốc độ sản xuất, chia sẻ và lan tỏa xuất bản phẩm. Hoạt động xuất bản từ môi trường thực tế bị giới hạn về không gian và thời gian dần chuyển sang môi trường internet giúp xuất bản phẩm đến được tay độc giả trên khắp thế giới nhanh nhất, tiện ích nhất.
Về phía doanh nghiệp xuất bản, Cách mạng công nghiệp 4.0 đem lại cơ hội cho sự ra đời xuất bản phẩm điện tử, in ấn được số hóa trên nền tảng công nghệ mới, phát hành, quảng bá xuất bản phẩm, dịch vụ hậu cần và chuỗi cung ứng trở nên hiệu quả hơn, chi phí thương mại giảm bớt, tạo điều kiện mở rộng thị trường và thúc đẩy tăng trưởng xuất bản phẩm. Các giao dịch mua bán, chuyển nhượng sách và bản quyền trên phạm vi toàn cầu diễn ra nhanh, thuận tiện hơn... Thông qua việc lưu vết dữ liệu của độc giả trên không gian mạng, các doanh nghiệp xuất bản, in ấn, phát hành thu thập được lượng dữ liệu khổng lồ, từ đó cập nhật được nhu cầu của bạn đọc, để có những đề tài sách, thiết kế ấn phẩm và cách tiếp thị cũng như phương thức cung cấp xuất bản phẩm đáp ứng được thị hiếu bạn đọc.
Việc quảng bá xuất bản phẩm trên nền tảng internet góp phần quảng bá hình ảnh đất nước, con người và văn hóa Việt Nam đến với bạn bè thế giới. Qua đó, giúp độc giả trên thế giới có những thông tin chính xác về thành tựu đổi mới của đất nước ta, thêm hiểu và yêu mến Việt Nam, cộng đồng người Việt ở nước ngoài thêm gắn bó với quê hương, đất nước. Ở chiều ngược lại, ngành xuất bản Việt Nam có thêm cơ hội khai thác, chuyển tải các xuất bản phẩm giá trị của nước ngoài về Việt Nam, phục vụ nhu cầu của độc giả trong nước. Những thay đổi đó đem lại nhiều cơ hội và tiền đề thuận lợi cho sự phát triển xuất bản Việt Nam.
Bên cạnh nhiều thuận lợi, hoạt động xuất bản của Việt Nam cũng đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Khi công nghệ và tự động hóa phát triển, các đơn vị xuất bản phải đối mặt với áp lực nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến và đổi mới dây chuyền công nghệ, nguồn nhân lực có năng lực về công nghệ cao… Công nghệ, nhân lực và nguồn vốn hiện nay của các đơn vị xuất bản, đặc biệt là lĩnh vực in ấn, phát hành của Việt Nam còn khá nhỏ bé. Số tác phẩm có giá trị chiếm tỷ lệ chưa cao. Năng lực, quy mô, trình độ của các nhà xuất bản còn nhiều hạn chế… Công tác chỉ đạo, quản lý nhà nước về xuất bản trên một số mặt chưa hiệu quả, nhất là quản lý xuất bản điện tử. Công nghệ xuất bản trong nước chưa bắt kịp với xu thế phát triển công nghệ của thế giới thời kỳ Cách mạng công nghệ 4.0 và nếu có công nghệ mới, thì nguồn nhân lực kỹ thuật trong nước lại chưa đủ năng lực đáp ứng các yêu cầu về chuyên môn.
Mặt khác, tuy số đầu sách và số bản sách tăng đều đặn hằng năm nhưng đi cùng với đó là số lượng xuất bản phẩm sai phạm cũng có số lượng không nhỏ. Trong năm 2017, Cục Xuất bản, In và Phát hành đã xử lý 155 xuất bản phẩm vi phạm của các nhà xuất bản (101 xuất bản phẩm vi phạm về nội dung; 5 xuất bản phẩm sai sót về câu chữ, chính tả; 49 xuất bản phẩm vi phạm các quy định khác của Luật Xuất bản)... Đối với mảng sách điện tử, từ năm 2016 đến đầu năm 2020, số lượng đề tài đăng ký dần suy giảm. Số đầu sách (tên sách) điện tử trên thị trường bị giảm sút: Năm 2016 số ebook đăng ký là gần 1.900 tên sách, thì đến năm 2019, chỉ còn 5 nhà xuất bản có khả năng xuất bản sách điện tử với 92 đề tài được đăng ký (9). Đây là hiện tượng đi trái với xu thế chung của thế giới, cũng như nhu cầu của bạn đọc...
Những thách thức, hạn chế trên là do một số cơ quan chỉ đạo, quản lý chưa kịp thời có giải pháp phù hợp để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất bản phát triển. Nhiều vấn đề lý luận mới đặt ra trong công tác xuất bản chưa được nghiên cứu, làm rõ. Sự phối hợp giữa cơ quan chỉ đạo, cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan chủ quản nhà xuất bản còn nhiều hạn chế. Công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực xuất bản chưa được triển khai đồng bộ; quy định pháp lý trong việc chống vi phạm bản quyền ở nước ta còn hạn chế. Năng lực, trình độ của một số cán bộ quản lý nhà xuất bản, biên tập viên, lao động ngành xuất bản chưa đáp ứng được đòi hỏi của hoạt động xuất bản trong tình hình mới…
Trước thực trạng đó, để ngành xuất bản của Việt Nam phát triển trên cơ sở tận dụng được những cơ hội, vượt qua những khó khăn từ tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0, cần có hệ giải pháp đồng bộ, tập trung hiện đại hóa hoạt động xuất bản với kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin mở; đổi mới công tác quản lý hoạt động xuất bản theo hướng tăng cường vai trò công tác quy hoạch, định hướng, xây dựng hệ thống pháp luật đối với hoạt động xuất bản; quy hoạch, sắp xếp, kiện toàn lại cơ sở đào tạo xuất bản, in, phát hành theo hướng chính quy, hiện đại; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý sai phạm; mở rộng hợp tác, liên kết và hội nhập quốc tế sâu rộng về khoa học - công nghệ, kỹ thuật xuất bản nhằm đa dạng hóa sản phẩm xuất bản, nâng cao năng lực nội tại của hoạt động xuất bản Việt Nam./.
(1) Tổng cục Thống kê (2018), Niên giám thống kê tóm tắt, tr. 391.
(2) Cục Xuất bản, In và Phát hành (2018) Báo cáo tại Hội nghị triển khai công tác xuất bản, phát hành.
(3), (5), (6) Cục Xuất bản - In và Phát hành (2019), Báo cáo tại Hội nghị triển khai công tác xuất bản, phát hành năm.
(4)https://zingnews.vn/nam-2019-xuat-ban-400-trieu-ban-sach-doanh-thu-2600-ty-dong-post1032094.html
(7), (9) Ban Tuyên giáo Trung ương, Kết luận Hội nghị giao ban công tác xuất bản 6 tháng đầu năm 2019.
(8) http://hvcsnd.edu.vn/home/nghien-cuu-trao-doi/dai-hoc-40/xuat-ban-voi-cuoc-cach-mang-cong-nghiep-40.
___________________
Bài đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 21.7.2020
ThS. Đào Thị Hoàn
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Nguồn: tapchicongsan.org.vn
Bài liên quan
- Vai trò của quản trị truyền thông trong phát triển du lịch bền vững – Nghiên cứu trường hợp tại tỉnh Khánh Hòa
- Đặc điểm, nguyên tắc tổ chức sản xuất và sáng tạo nội dung truyền hình đa nền tảng trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay
- Ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến hoạt động báo chí
- Truyền thông về cơ hội phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu khi ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ ở đồng bằng sông Cửu long trên báo chí Việt Nam
- Một số giải pháp cải thiện hoạt động khai thác, xuất bản sách tinh gọn tại Việt Nam hiện nay
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- 3 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 4 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 5 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 6 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Báo chí Việt Nam và Cu Ba chia sẻ kinh nghiệm, hứa hẹn mở ra sự hợp tác tương lai
Việt Nam - Cuba là biểu tượng sáng ngời về tình đoàn kết hữu nghị quốc tế. Hai dân tộc đã sát cánh bên nhau trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Tình hữu nghị đặc biệt này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Fidel Castro vun đắp qua nhiều thế hệ và trở thành một tài sản vô giá của cả hai dân tộc.
Vai trò của quản trị truyền thông trong phát triển du lịch bền vững – Nghiên cứu trường hợp tại tỉnh Khánh Hòa
Vai trò của quản trị truyền thông trong phát triển du lịch bền vững – Nghiên cứu trường hợp tại tỉnh Khánh Hòa
Trong bối cảnh du lịch ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, việc phát triển du lịch bền vững tại Khánh Hòa đòi hỏi sự tham gia chủ động của cả chính quyền, doanh nghiệp và cộng đồng địa phương (CĐĐP). Quản trị truyền thông không chỉ góp phần xây dựng hình ảnh Khánh Hòa là một điểm đến bền vững, mà còn trở thành công cụ quan trọng trong việc kết nối các bên liên quan, nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường và bảo tồn văn hóa bản địa. Bài báo khoa học này tập trung hệ thống hóa và đánh giá tiềm năng du lịch cộng đồng (DLCĐ) tại tỉnh Khánh Hòa, đồng thời đề xuất các giải pháp quản trị truyền thông hiệu quả nhằm phát triển DLCĐ một cách đồng bộ, giúp du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và đúng định hướng chiến lược, trong đó DLCĐ đóng vai trò cốt lõi. Kết quả nghiên cứu được thu thập thông qua các phương pháp như: phỏng vấn sâu; phương pháp khảo sát; phân tích, tổng hợp và so sánh dữ liệu; xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS.22.0.
Đặc điểm, nguyên tắc tổ chức sản xuất và sáng tạo nội dung truyền hình đa nền tảng trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay
Đặc điểm, nguyên tắc tổ chức sản xuất và sáng tạo nội dung truyền hình đa nền tảng trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay
Cuộc cách mạng 4.0 đang tạo ra sự thay đổi sâu rộng trong ngành truyền hình với sự xuất hiện của truyền hình đa nền tảng. Khác với truyền hình truyền thống, truyền hình đa nền tảng đã và đang định hình lại cách thức tổ chức sản xuất và sáng tạo nội dung thông qua các đặc trưng nổi bật như tính thời sự, khả năng lan truyền thông tin nhanh chóng, tính đa dạng và tương tác cao, quản lý và lưu trữ hiệu quả. Vận hành một mô hình sản xuất truyền hình đa nền tảng cần tuân thủ các nguyên tắc cơ bản, trong đó nhấn mạnh đến các nguyên tắc về thông tin chính xác, kết hợp sản xuất nội dung với công nghệ mới, phát triển đa dạng các nền tảng...
Ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến hoạt động báo chí
Ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến hoạt động báo chí
Bài viết nghiên cứu về tác động của truyền thông xã hội đối với hoạt động báo chí hiện nay, tập trung vào sự thay đổi trong hoạt động sản xuất, phân phối tin tức và cấu trúc nội dung báo chí. Truyền thông xã hội đã trở thành một nguồn tin phong phú, đa chiều và nhanh chóng, làm thay đổi đáng kể cách thức thu thập và truyền tải thông tin. Tuy nhiên, tính xác thực của nguồn tin mạng xã hội vẫn là một thách thức, đòi hỏi báo chí phải chú trọng vào việc kiểm chứng và phản hồi thông tin một cách chính xác. Trên tinh thần đó, bài viết đề xuất báo chí cần phát triển nội dung chất lượng cao, tăng cường kỹ năng công nghệ số của phóng viên và xây dựng các nền tảng số riêng để giảm sự phụ thuộc vào truyền thông xã hội, đảm bảo tính chính xác và đáng tin cậy trong kỷ nguyên số.
Truyền thông về cơ hội phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu khi ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ ở đồng bằng sông Cửu long trên báo chí Việt Nam
Truyền thông về cơ hội phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu khi ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ ở đồng bằng sông Cửu long trên báo chí Việt Nam
Ngày 17/11/2017, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 120/NQ-CP về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu. Quan điểm chỉ đạo được nhấn mạnh trong Nghị quyết (NQ) là: “…chủ động thích ứng, phát huy tiềm năng, thế mạnh, chuyển hóa những thách thức thành cơ hội để phát triển, bảo đảm được cuộc sống ổn định…” (1). NQ này đã được các cơ quan liên quan, trong đó có các cơ quan báo chí quán triệt, triển khai thực hiện. Tuy nhiên, để “chuyển hóa những thách thức thành cơ hội”, nhất là với vùng đồng bằng sông Cửu Long, để phát triển bền vững, an toàn, thịnh vượng thì vai trò, trách nhiệm của báo chí cần được nhận thức đầy đủ, chủ động hơn.
Bình luận