Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa trong thời đại công nghệ số
Cách tiếp cận vi mô: Học tập suốt đời và giáo dục hệ các giá trị, chuẩn mực và kỹ năng văn hóa
Theo cách tiếp cận này, có thể coi văn hóa là hệ các giá trị, chuẩn mực và kỹ năng, thói quen của con người trong sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt hằng ngày. Cách tiếp cận vi mô này cho thấy, mối quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa cần được xem xét và giải quyết ở ảnh hưởng của hệ giá trị, chuẩn mực và kỹ năng văn hóa đối với hành vi, hoạt động kinh tế của các cá nhân và nhóm xã hội. Điều này có nghĩa là văn hóa tạo ra kinh tế gián tiếp thông qua việc tạo động lực, định hướng, điều chỉnh hành vi, hoạt động của con người trong lĩnh vực kinh tế.
Áp dụng cách tiếp cận này vào mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế có thể thấy, phát triển văn hóa là sự phát huy và hình thành, phát triển những giá trị, chuẩn mực, thói quen tích cực, tiến bộ, văn minh có khả năng thúc đẩy những hành vi, hoạt động bảo đảm tăng trưởng kinh tế, phát triển bền vững. Trong số này nổi bật nhất là những giá trị cốt lõi, như lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, lòng nhân ái, thương người, tính cộng đồng làng xã, tính tinh tế, linh hoạt… Đặc biệt, chỉ riêng việc coi trọng động cơ làm giàu hợp pháp, thượng tôn pháp luật và đề cao dân chủ, khoa học, công nghệ cũng là yếu tố quan trọng để kích thích nâng cao năng suất lao động và tăng trưởng kinh tế.
Đồng thời, phát triển văn hóa cũng gắn liền với quá trình đào thải, xóa bỏ hoặc tự làm mất những thói quen xấu, tiêu cực, lạc hậu có khả năng cản trở, kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế. Trong số này, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra những thói quen không có lợi cần được khắc phục để tăng trưởng kinh tế, như tính thụ động, khép kín, bảo thủ, trì trệ, tự ti, xuề xòa, tùy tiện, cào bằng, “bình quân chủ nghĩa”, ỷ lại, hẹp hòi, ích kỷ, bè phái, sĩ diện, háo danh…
Cách tiếp cận này có thể tạo ra ưu thế lớn trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa qua hai cơ chế.
Theo cơ chế thứ nhất, tăng trưởng kinh tế vừa là kết quả, vừa là thực tiễn đặc biệt hiệu quả để kiểm nghiệm từng thành phần và cấu trúc văn hóa của từng chủ thể, từng bên tham gia quá trình kinh tế. Ví dụ trong thời kỳ công nghiệp số, những người sản xuất, kinh doanh làm ăn gian dối, tham lam và bảo thủ không chịu đổi mới để áp dụng khoa học - công nghệ hiện đại đều có nguy cơ bị thua lỗ, thậm chí phá sản. Trong khi đó, những người sản xuất, kinh doanh làm ăn có trách nhiệm xã hội, cần cù, chịu khó và liên tục tìm tòi, nghiên cứu và áp dụng khoa học - công nghệ hiện đại, nhất là công nghệ số đều có cơ hội làm giàu.
Theo cơ chế thứ hai, tăng trưởng kinh tế đòi hỏi phải hình thành, phát triển những phẩm chất, năng lực phù hợp bảo đảm tạo động lực cho phát triển bền vững. Giải pháp chiến lược ở đây là vừa phát triển văn hóa với đặc trưng là dân tộc, nhân văn, dân chủ, khoa học vừa hình thành những đặc tính văn hóa, như yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. Đồng thời, cần gắn xây dựng xã hội học tập, “học tập suốt đời” với đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, theo đó chương trình giáo dục phổ thông mới ban hành năm 2018 được định hướng hình thành, phát triển ở học sinh 5 phẩm chất và 10 năng lực cốt lõi cần thiết cho con người Việt Nam thế kỷ XXI. Năm phẩm chất là yêu nước, trách nhiệm, trung thực, chăm chỉ và nhân ái. Mười năng lực cốt lõi là năng lực tự chủ và tự học, năng lực thể chất, năng lực thẩm mỹ, năng lực tin học, năng lực công nghệ, năng lực khoa học, năng lực toán học, năng lực ngôn ngữ, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, năng lực giao tiếp và hợp tác. Trong đó năng lực tin học và năng lực công nghệ trực tiếp đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế số và thời kỳ công nghệ số.
Cách tiếp cận vĩ mô: Phát triển hệ thống văn hóa, công nghiệp văn hóa và thị trường văn hóa
Việc giải quyết mối quan hệ tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa đòi hỏi phải quan tâm phát triển tổng hòa các bộ phận, các chiều cạnh văn hóa, gồm văn hóa kinh tế, văn hóa chính trị, văn hóa xã hội, văn hóa nghệ thuật, văn hóa tín ngưỡng, văn hóa giáo dục, văn hóa khoa học, văn hóa công nghệ, văn hóa môi trường và các chiều cạnh khác. Mỗi bộ phận, chiều cạnh này có thể phân chia thành các bộ phận và các chiều cạnh cấu thành của nó, như văn hóa công nghệ gồm văn hóa công nghệ nông nghiệp, văn hóa công nghệ công nghiệp, văn hóa công nghệ dịch vụ, văn hóa công nghệ khoa học. Sự phát triển văn hóa thể hiện ở sự phát triển từng bộ phận, từng chiều cạnh, từng loại hình văn hóa, trong đó yếu tố số và số hóa xâm nhập và tiếp biến trong toàn bộ văn hóa và từng bộ phận, thành phần và chiều cạnh của nó.
Một giải pháp trở nên phổ biến và được quan tâm thực hiện trên phạm vi quốc tế là đẩy mạnh xây dựng, phát triển công nghiệp văn hóa và gắn liền với nó là “kinh tế văn hóa”. Kinh nghiệm thế giới cho biết, ví dụ ở Mỹ, giá trị sản lượng của ngành công nghiệp văn hóa và nghệ thuật ước tính đạt gần 919.7 tỷ USD, chiếm 4,3% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nước này vào năm 2017(1). Với giá trị như vậy, ngành công nghiệp văn hóa và nghệ thuật đóng góp cho nền kinh tế của Mỹ nhiều hơn các ngành công nghiệp xây dựng, vận tải và hậu cần, du lịch, mỏ, tiện ích và nông nghiệp. Ngành công nghiệp văn hóa và nghệ thuật tập trung đông nhân lực chất lượng cao với 63% người lao động (trên 25 tuổi) có trình độ đại học và trên đại học. Ngành này thu hút được 54% người lớn tham gia hưởng thụ các hoạt động văn hóa, nghệ thuật và 54% người lớn tham gia các hoạt động sản xuất, sáng tạo và biểu diễn văn hóa, nghệ thuật.
Năm 2019, kim ngạch xuất khẩu văn hóa và nghệ thuật của Mỹ đạt gần 78 tỷ USD, nhập khẩu gần 45 tỷ USD và mức xuất siêu gần 33 tỷ USD tăng gấp 10 lần so với năm 2006 với 3.3 tỷ USD. Tuy nhiên, cách định nghĩa và phân loại các ngành công nghiệp văn hóa của các nước có khác nhau. Ví dụ, ở Mỹ, ngành công nghiệp văn hóa và nghệ thuật bao gồm 11 ngành là quảng cáo, kiến trúc, các dịch vụ và trường nghệ thuật, thiết kế, điện ảnh, bảo tàng, âm nhạc, biểu diễn nghệ thuật, xuất bản, truyền hình và các nghệ thuật thị giác. Theo Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO), ngành công nghiệp văn hóa gồm hai nhóm ngành. Nhóm các ngành công nghiệp văn hóa cốt lõi gồm 11 ngành là bảo tàng, triển lãm, thư viện; biểu diễn nghệ thuật; lễ hội; nghệ thuật thị giác, thủ công mỹ nghệ; thiết kế; xuất bản; truyền hình, phát thanh; điện ảnh và video; nhiếp ảnh; truyền thông tương tác. Nhóm ngành công nghiệp văn hóa mở rộng gồm 7 ngành là dụng cụ âm nhạc, thiết bị âm thanh, kiến trúc, quảng cáo, thiết bị in, phần mềm và phần cứng nghe nhìn.
Ở Việt Nam, nhiệm vụ phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa được chính thức đưa ra vào năm 2014. Tuy nhiên, trong thực tế, các số liệu thống kê kinh tế - xã hội chưa phân tách các ngành công nghiệp văn hóa và nghệ thuật. Niên giám thống kê vẫn chủ yếu thu thập, xử lý và cung cấp số liệu về 20 ngành kinh tế, trong đó chỉ có hai ngành thuộc kinh tế văn hóa là ngành “thông tin và truyền thông” và ngành “nghệ thuật, vui chơi và giải trí”.
Năm 2018, năng suất lao động bình quân của người lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong hai ngành kinh tế “văn hóa và nghệ thuật” này ước tính đạt từ 116 đến 118 triệu đồng/người/năm, cao hơn năng suất lao động trung bình của cả nước (102 triệu đồng/người/năm). Tuy nhiên, tỷ trọng giá trị đóng góp của cả hai ngành “thông tin và truyền thông” và ngành “nghệ thuật, vui chơi và giải trí” trong GDP của Việt Nam không tăng, mà giảm từ 1,78% năm 2005 xuống còn 1,26% năm 2018. Trong cấu trúc tổng chi ngân sách nhà nước, tỷ trọng chi cho “văn hóa thông tin; phát thanh truyền hình, thông tấn; thể dục thể thao” so với tỷ trọng chi cho “sự nghiệp kinh tế, bảo vệ môi trường” trong giai đoạn 2005 - 2018 có sự chênh lệch. Năm 2005, cứ 1 đồng ngân sách nhà nước chi cho văn hóa thì có 5,6 đồng chi cho kinh tế, đến năm 2018 cứ 1 đồng chi cho văn hóa thì có 7,3 đồng chi cho kinh tế.
Thị trường văn hóa trong nước đang phát triển nhanh chóng với sự xâm nhập và sử dụng rộng rãi điện thoại và các phương tiện kết nối internet. Xét theo giá hiện hành, năm 2018, bình quân mỗi người thuộc nhóm hộ gia đình nghèo chi 1.400 đồng/tháng cho “văn hóa, thể thao, giải trí”, trong khi mỗi người thuộc nhóm hộ gia đình giàu chi 126.300 đồng/tháng. Phân hóa giàu nghèo về mức chi cho “văn hóa, thể thao, giải trí” là trên 90 lần, tức người nghèo cứ chi 1 đồng thì người giàu chi 90 đồng. Đáng chú ý là trong thị trường văn hóa này, mức phân hóa giàu nghèo không giảm mà tăng từ 66 lần lên 90 lần trong giai đoạn 2006 - 2018.
Cũng trong giai đoạn này, mức phân hóa giàu nghèo trong tổng chi tiêu cho đời sống không tăng mà giảm từ 4,5 lần xuống còn 3,7 lần. Điều này đưa ra giả thuyết về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa ở cấp độ vi mô cá nhân và hộ gia đình là phân hóa giàu nghèo về kinh tế có thể tăng chậm hoặc giảm, nhưng phân hóa giàu nghèo về văn hóa có thể tăng rất nhanh. Giả thuyết là càng giàu, con người càng đầu tư nhiều cho văn hóa. Điều này gợi ra sự cần thiết phải quan tâm tới thực hiện các giải pháp giảm nghèo đa chiều, thực hiện công bằng xã hội và tiến bộ xã hội trong giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa.
Thực trạng mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa từ thực tiễn một số địa phương và một số hàm ý chính sách
Giải pháp thực tiễn bảo đảm xây dựng mối quan hệ hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa là tăng đầu tư cho văn hóa tương xứng với tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, đây có thể là giải pháp lý tưởng mà trong thực tế có thể xuất hiện một số mô hình khác, kịch bản khác:
Thứ nhất, mức tăng trưởng kinh tế diễn ra nhanh hơn mức tăng đầu tư cho văn hóa nên bất bình đẳng giữa kinh tế và văn hóa tiếp tục tăng.
Thứ hai, mức tăng trưởng kinh tế và mức đầu tư cho văn hóa đều không tăng, thậm chí giảm, do vậy bất bình đẳng giữa kinh tế và văn hóa không giảm mà tăng lên.
Thứ ba, mức tăng trưởng kinh tế chậm hơn mức tăng đầu tư văn hóa, do vậy mức bất bình đẳng giữa kinh tế và văn hóa giảm. Vấn đề nghiên cứu đặt ra là các mô hình này thể hiện như thế nào ở các địa phương trong cả nước: các mô hình này liên quan như thế nào đến mức độ giàu nghèo của các địa phương?
Có thể xem xét các mô hình giải pháp này qua phân tích số liệu thống kê về chi ngân sách cho sự nghiệp văn hóa và kinh tế ở bốn trường hợp gồm hai địa phương thuộc nhóm thu nhập cao nhất, một địa phương thuộc nhóm thu nhập trung bình và một địa phương thuộc nhóm thu nhập thấp nhất cả nước. Trong giai đoạn 2015 - 2018, xu hướng chung của địa phương giàu, thu nhập cao là tăng mức chi ngân sách cho sự nghiệp kinh tế - xã hội, nhưng mức chi cho kinh tế tăng nhanh hơn nhiều so với chi cho văn hóa, do vậy xảy ra bất bình đẳng giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa. Ví dụ, ở Thành phố Hồ Chí Minh với mức thu nhập bình quân đầu người cao thứ hai (6,2 triệu đồng/tháng), chi ngân sách cho văn hóa tăng gần 7%, nhưng tỷ trọng chi văn hóa giảm từ gần 3,3% xuống còn 2,8% trong giai đoạn 2015 - 2018(2). Trong khi đó, chi cho kinh tế tăng nhanh trên 50% từ 3,7 nghìn tỷ đồng lên 5,6 nghìn tỷ đồng và tương ứng tỷ trọng tăng từ 12% lên 15%. Khoảng cách chi kinh tế so với chi cho văn hóa tăng nhanh từ 3,8 lần lên gần 5,4 lần trong cùng thời kỳ này.
Tương tự, ở Hà Nội với mức thu nhập bình quân đầu người cao thứ ba trong cả nước (6,1 triệu đồng/tháng), chi sự nghiệp “văn hóa thông tin, phát thanh, truyền hình, thông tấn, thể dục, thể thao” tăng gần 7% về số lượng tuyệt đối từ 1,5 nghìn tỷ đồng năm 2015 lên 1,6 nghìn tỷ đồng năm 2018. Trong khi đó, chi cho sự nghiệp kinh tế tăng nhanh với tốc độ gần 32% từ 6,6 nghìn tỷ đồng lên 8,6 nghìn tỷ đồng. Mặc dù số lượng tuyệt đối tăng, nhưng tỷ trọng chi cho sự nghiệp văn hóa giảm từ 4,2% xuống còn 3,7%, trong khi đó tỷ trọng chi cho kinh tế tăng từ 18,5% lên 19,9%. Khoảng cách chi cho kinh tế so với chi cho văn hóa tăng từ 4,4 lần lên 5,4 lần trong cùng thời kỳ này. Điều này có nghĩa là năm 2015 cứ 1 đồng chi cho văn hóa thì có 4,4 đồng chi cho kinh tế và năm 2018 ước tính cứ 1 đồng chi cho văn hóa thì có 5,4 đồng chi cho kinh tế(3).
Ở các địa phương có thu nhập thấp, mô hình phát triển kinh tế và văn hóa phức tạp hơn nhiều so với các địa phương có thu nhập cao. Ví dụ, tỉnh Lai Châu với mức thu nhập bình quân đầu người là 1,5 triệu đồng/tháng, có mức chi ngân sách cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội giảm, trong đó chi cho văn hóa giảm mạnh hơn một nửa (57%) từ 115 tỷ đồng năm 2015 xuống còn 49 tỷ đồng năm 2018 và chi cho kinh tế giảm nhẹ (gần 8%) từ 604 tỷ đồng xuống còn 558 tỷ đồng(4). Do vậy, khoảng cách chi cho kinh tế so với chi cho văn hóa tăng cao từ gần 5,3 lần lên gần 11,4 lần.
Ở địa phương có mức sống trung bình, ví dụ tỉnh Đắk Nông với mức thu nhập bình quân đầu người đạt 3,1 triệu đồng/tháng có mô hình tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa khác hẳn. Mức chi cho văn hóa của Đắk Nông không giảm mà tăng nhanh với mức 40% từ 87,9 tỷ đồng lên 123,1 tỷ đồng và tương ứng tỷ trọng tăng từ trên 2,4% lên 2,9% trong giai đoạn 2015 - 2018. Trong khi đó, chi cho kinh tế tăng chậm với mức gần 20% từ 356 tỷ đồng lên 426 tỷ đồng, đồng thời tỷ trọng chi cho kinh tế tăng nhẹ từ 9,8% lên trên 10% trong cùng thời kỳ này. Do mức tăng chi cho văn hóa cao hơn mức tăng chi cho kinh tế nên khoảng cách giữa chi cho kinh tế và chi cho văn hóa giảm từ 4,1 lần xuống còn 3,5 lần, có nghĩa là ở Đắk Nông cứ 1 đồng chi cho văn hóa có 3,5 đồng chi cho kinh tế(5).
Điều cần lưu ý là các mô hình giải pháp này liên quan chặt chẽ đến các đặc điểm của nền công nghệ số. Ví dụ so với những địa phương nghèo, những địa phương giàu thường có tỷ lệ cao các hộ gia đình sử dụng máy vi tính và các công nghệ kết nối mạng internet. Đặc biệt các địa phương phát triển cao, như Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội luôn thu hút và tập trung đông các cơ sở kinh tế, cơ sở công nghiệp gồm cả công nghiệp văn hóa có khả năng số hóa cao hơn hẳn và nhiều hơn hẳn so với các địa phương khác. Như vậy, công nghệ số vừa thách thức vừa tạo cơ hội, điều kiện thuận lợi để thực hiện giải pháp tăng đầu tư phát triển văn hóa ngang tầm tăng trưởng kinh tế ở từng địa phương và trong phạm vi cả nước.
Để thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển 13 ngành công nghiệp văn hóa thành những ngành kinh tế dịch vụ đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững cần chủ động, tích cực thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp trên các cấp độ từ vi mô đến vĩ mô, gồm:
Thứ nhất, cần tăng cường tuyên truyền nâng cao nhận thức, hoàn thiện cơ chế, chính sách, phát triển nguồn nhân lực, áp dụng khoa học - công nghệ, thu hút đầu tư, mở rộng thị trường, hợp tác quốc tế. Trong số đó quan trọng nhất là tiếp tục đổi mới các cơ chế, chính sách văn hóa, thông qua việc vừa thường xuyên rà soát để xóa bỏ những cơ chế, chính sách lạc hậu, bao cấp, “xin - cho” đối với các ngành công nghiệp văn hóa, vừa xây dựng chính sách ưu tiên đầu tư phát triển chọn lọc những lĩnh vực văn hóa thuộc di sản văn hóa dân tộc và những bộ môn văn hóa - nghệ thuật hàn lâm cần thiết để hội nhập và giao lưu văn hóa thế giới.
Thứ hai, tăng cường nghiên cứu, áp dụng các quy luật, cơ chế kinh tế thị trường và các thành tựu khoa học - công nghệ, số hóa trong xây dựng và thực thi chính sách phát triển các ngành công nghiệp văn hóa như là những ngành kinh tế sáng tạo có khả năng làm tăng nhanh giá trị kinh tế và tạo nhiều giá trị mới, hàng hóa mới, dịch vụ mới, tri thức mới, công nghệ mới và “con người mới” cho phát triển bền vững.
Thứ ba, cần đổi mới tư duy theo hướng càng đầu tư nhiều cho văn hóa thì càng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bởi vì các ngành công nghiệp văn hóa là những ngành kinh tế sáng tạo mà ở đó vừa được “số hóa” vừa thúc đẩy số hóa nền kinh tế, qua đó góp phần phát triển bền vững đất nước./.
____________________________
(1) Theo Báo cáo tóm tắt của Quỹ hỗ trợ nghệ thuật và Phòng phân tích kinh tế, Bộ Thương mại Hoa Kỳ, 2021.
(2), (3), (4), (5) Tổng cục Thống kê (2020), Tư liệu kinh tế - xã hội 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Nxb. Thống kê, Hà Nội, tr. 699,17,323,601.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 24.5.2021
Bài liên quan
- Tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy Hải Phòng trong phát triển kinh tế biển
- Tổ chức thành công đại hội các cấp của Đảng bộ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: đoàn kết, dân chủ, gương mẫu, trí tuệ, hiệu quả
- Truyền thông về Môi trường - Xã hội và Quản trị (ESG) của các tập đoàn lớn tại Việt Nam hiện nay: Cơ hội và thách thức
- Sự dịch chuyển của thương hiệu Việt trong ngành thực phẩm và đồ uống (F&B) Việt Nam
- Giải pháp thúc đẩy tác động của ứng dụng yếu tố văn hoá trong chương trình âm nhạc đối với hành vi tiếp nhận nội dung của giới trẻ Việt Nam trên các phương tiện truyền thông
Xem nhiều
-
1
[Video] Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm: “Động lực mới cho phát triển kinh tế”
-
2
Quản trị nhà nước tốt gắn liền với thể chế dân chủ ổn định và phát triển
-
3
Ứng dụng AI trong sáng tạo tác phẩm báo mạng điện tử ở Việt Nam hiện nay
-
4
Phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc - mục tiêu, quyết tâm của toàn Đảng và ý nguyện, khát vọng của người dân Việt Nam
-
5
Thực hành tiết kiệm
-
6
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng và vận dụng trong nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Đảng viên trẻ với việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên không gian mạng
Trên không gian mạng, nền tảng tư tưởng của Đảng là một trong những chủ đề nhạy cảm và được quan tâm sâu sắc. Vì thế, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên không gian mạng trở thành một nhiệm vụ cấp bách và quan trọng, đòi hỏi sự chung tay của toàn thể cán bộ, đảng viên trong đó có đảng viên trẻ - những người sở hữu tri thức, năng lực và có vai trò then chốt trong việc xây dựng và phát triển đất nước. Bài viết này tập trung làm rõ vai trò của đảng viên trẻ trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên không gian mạng.
Tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy Hải Phòng trong phát triển kinh tế biển
Tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy Hải Phòng trong phát triển kinh tế biển
Thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Thành ủy Hải Phòng, công tác phát triển kinh tế biển đã đạt được những kết quả ấn tượng. Trên cơ sở đó, góp phần tăng trưởng bền vững, tạo việc làm, thúc đẩy xuất khẩu, bảo đảm an ninh quốc phòng và khai thác hiệu quả tiềm năng biển đảo… của Thành phố. Bài viết làm rõ thực trạng lãnh đạo phát triển kinh tế biển của Thành ủy Hải Phòng, chỉ rõ một số hạn chế, bất cập; từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy Hải Phòng trong phát triển kinh tế biển thời gian tới.
Tổ chức thành công đại hội các cấp của Đảng bộ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: đoàn kết, dân chủ, gương mẫu, trí tuệ, hiệu quả
Tổ chức thành công đại hội các cấp của Đảng bộ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: đoàn kết, dân chủ, gương mẫu, trí tuệ, hiệu quả
Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị và hướng dẫn của Đảng ủy các cơ quan Đảng Trung ương, các tổ chức Đảng trực thuộc Đảng bộ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tiến hành đại hội nhiệm kỳ 2025-2030 tiến tới Đại hội lần thứ XV Đảng bộ Học viện và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. GS, TS NGUYỄN XUÂN THẮNG, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương có bài viết chỉ đạo đại hội các cấp của Đảng bộ Học viện. Tạp chí trân trọng giới thiệu bài viết quan trọng này.
Truyền thông về Môi trường - Xã hội và Quản trị (ESG) của các tập đoàn lớn tại Việt Nam hiện nay: Cơ hội và thách thức
Truyền thông về Môi trường - Xã hội và Quản trị (ESG) của các tập đoàn lớn tại Việt Nam hiện nay: Cơ hội và thách thức
Trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh hội nhập kinh tế toàn cầu và cam kết thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, truyền thông về ESG (Môi trường – Xã hội và Quản trị) tại các tập đoàn Việt Nam trở thành công cụ quan trọng để tiếp cận gần gũi với công chúng, thể hiện cam kết tạo ra tác động xã hội tích cực, đồng thời góp phần xây dựng hình ảnh thương hiệu uy tín và thu hút khách hàng có trách nhiệm xã hội(1). Việc truyền thông hiệu quả giúp doanh nghiệp nâng cao danh tiếng, tạo niềm tin với nhà đầu tư và người tiêu dùng, đồng thời khai thác cơ hội phát triển bền vững trong môi trường cạnh tranh ngày càng khắt khe. Tuy nhiên, bên cạnh cơ hội, các tập đoàn cũng đối mặt với thách thức lớn về hiện tượng greenwashing gây mất niềm tin và ảnh hưởng tiêu cực đến uy tín doanh nghiệp; đồng thời, vấn đề minh bạch và xác thực trong công bố thông tin ESG vẫn còn hạn chế, đòi hỏi doanh nghiệp phải xây dựng chiến lược truyền thông chặt chẽ, có chứng nhận uy tín và câu chuyện thực tế để tránh rủi ro pháp lý và mất lòng tin từ công chúng. Do đó, truyền thông về ESG tại các tập đoàn Việt Nam hiện nay vừa là cơ hội để khẳng định vị thế bền vững vừa là thách thức đòi hỏi sự cam kết minh bạch và trách nhiệm cao trong từng hành động và thông điệp truyền tải.
Sự dịch chuyển của thương hiệu Việt trong ngành thực phẩm và đồ uống (F&B) Việt Nam
Sự dịch chuyển của thương hiệu Việt trong ngành thực phẩm và đồ uống (F&B) Việt Nam
Không chỉ là dấu hiệu để nhận biết và phân biệt, thương hiệu còn minh chứng cho sự uy tín và danh tiếng của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng. Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 và hội nhập kinh tế toàn cầu, môi trường kinh doanh cạnh tranh ngày càng khốc liệt, các doanh nghiệp cần đầu tư đúng đắn cho thương hiệu. Định vị thương hiệu không chỉ giúp doanh nghiệp tạo dựng niềm tin với khách hàng mà còn góp phần nâng cao giá trị tài sản thương hiệu và gia tăng lợi thế cạnh tranh. Từ góc độ quản trị truyền thông thương hiệu, nghiên cứu này chỉ ra xu hướng dịch chuyển, nhìn nhận những thách thức trong quá trình định vị thương hiệu Việt nói chung, thương hiệu trong ngành thực phẩm và đồ uống (F&B) nói riêng, phát hiện điểm cốt lõi trong quá trình xây dựng và phát triển thương hiệu của một số doanh nghiệp điển hình. Cuối cùng, nghiên cứu đúc rút một số kinh nghiệm, gợi mở giải pháp nhằm nâng cao việc phát triển thương hiệu cho các doanh nghiệp F&B tại Việt Nam.
Bình luận