Một số vấn đề về chuyển đổi số trong hoạt động bồi dưỡng ở cơ sở giáo dục đại học
I. Chuyển đổi số và hoạt động đào tạo bồi dưỡng ở cở sở giáo dục đại học
1. Khái niệm chuyển đổi số
Chuyển đổi số (Tiếng Anh: digital transformation) đang là một trong những chủ đề được quan tâm, chỉ đạo, thực hiện ở các cấp trên nhiều lĩnh vực hiện nay. Theo Từ điển Bách khoa toàn thư mở Wikipedia thì CĐS là việc vận dụng tính luôn đổi mới, nhanh chóng của công nghệ kỹ thuật để giải quyết vấn đề đặt ra. Bên cạnh khái niệm này còn có khái niệm số hóa (digitization) đề cập đến công việc cụ thể như chuyển thể dữ liệu ở dạng giấy hoặc định dạng truyền thống khác thành những dữ liệu mềm trên máy tính. Đây là bước đầu trong quá trình CĐS, việc số hóa đã diễn ra và vẫn tồn tại cho đến bây giờ với hình thức nhập liệu hoặc các hình thức khác dựa trên thiết bị điện tử hiện đại.
Với ứng dụng số hóa (digitalization) có thể được hiểu là một chuỗi các hoạt động nhằm nâng cao hiệu suất công việc và giảm bớt thời gian cần thiết để thao tác công việc đã có từ trước. Qua đó cho thấy, CĐS đề cập đến việc tạo ra những phương thức, mô hình làm việc mới dựa trên dữ liệu ở dạng số hóa và ứng dụng số. CĐS tạo ra một chuỗi những hoạt động thay đổi về cách thức vận hành và những việc làm cụ thể từ trước đến nay như là một quá trình hoàn chỉnh áp dụng số hóa và ứng dụng số hóa nhưng ở một cấp độ cao hơn.
2. Hoạt động bồi dưỡng trong cơ sở giáo dục đại học
CĐS trong HĐBD hướng tới việc giảm thuyết giảng, truyền thụ kiến thức sang phát triển năng lực người học, tăng khả năng tự học, tạo cơ hội học tập mọi lúc, mọi nơi, cá nhân hóa việc học, góp phần tạo ra xã hội học tập và học tập suốt đời. Sự bùng nổ của nền tảng công nghệ hiện nay hình thành nên hạ tầng giáo dục số. Dựa trên đó, nhiều mô hình giáo dục thông minh đang được phát triển trên nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT); hỗ trợ đắc lực việc cá nhân hóa học tập (mỗi người học một giáo trình và một phương pháp học tập riêng không giống với người khác, việc này do các hệ thống CNTT thực hiện tự động); làm cho việc truy cập kho kiến thức khổng lồ trên môi trường mạng được nhanh chóng, dễ dàng; giúp việc tương tác giữa gia đình, nhà trường, giáo viên, học sinh gần như tức thời.
Theo đó, CĐS trong HĐBD ở các cơ sở giáo dục đại học đang đứng trước những cơ hội và thách thức không nhỏ và là hướng thay đổi tất yếu trong tương lai. Tuy nhiên, việc CĐS cần nhiều nguồn lực, thời gian nên việc làm rõ những yếu tố tác động nhằm thúc đẩy sự phát triển của hoạt động này là thực sự cần thiết.
II. Chuyển đổi số trong hoạt động bồi dưỡng ở cơ sở đào đào tạo đại học
1. Thực trạng chuyển đổi số trong giáo dục đại học ở nước ta hiện nay
Theo Nghị quyết số 52 –NQ/TW ngày 27 tháng 9 năm 2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Mục tiêu cụ thể đến năm 2025 đó là “cơ bản hoàn thành CĐS trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội”.
Để triển khai thực hiện nhiệm vụ CĐS quốc gia, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 749 QĐ/TTg ngày 03 tháng 6 năm 2020, phê duyệt “Chương trình CĐS quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” với đầy đủ những nội dung nhằm thực hiện chương trình CĐS quốc gia. Trong một số nhiệm vụ, giải pháp phát triển xã hội có 07 vấn đề đặt ra thì có đến 03 nội dung đề cập đến đào tạo, đào tạo lại với mô hình giáo dục tích hợp, các khóa học đại trà trực tuyến. Đồng thời đánh giá vai trò quan trọng của đào tạo tiếng Anh và kỹ năng sử dụng CNTT, an toàn thông tin ở các cấp học.
Đặc biệt, trong lĩnh vực giáo dục, quyết định đã nêu rõ yêu cầu trong CĐS giáo dục đó là phát triển nền tảng hỗ trợ dạy và học từ xa, ứng dụng triệt để công nghệ số trong công tác quản lý, giảng dạy và học tập; số hóa tài liệu, giáo trình; xây dựng nền tảng chia sẻ tài nguyên giảng dạy và học tập theo cả hình thức trực tiếp và trực tuyến. Phát triển công nghệ phục vụ giáo dục, hướng tới đào tạo cá thể hóa; 100% các cơ sở giáo dục triển khai công tác dạy và học từ xa, trong đó thử nghiệm chương trình đào tạo cho phép sinh viên học trực tuyến tối thiểu 20% nội dung chương trình. Ứng dụng công nghệ số để giao bài tập về nhà và kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh trước khi đến lớp học. Đây là những chủ chương chính sách lớn, cụ thể cho lĩnh vực giáo dục thực hiện CĐS trong thời gian tới.
CĐS trong HĐBD tập trung vào hai nội dung chủ đạo là CĐS trong quản lý và CĐS trong dạy, học, kiểm tra, đánh giá, nghiên cứu khoa học (NCKH). Đối với nội dung quản lý bao gồm số hóa thông tin quản lý, tạo ra những hệ thống cơ sở dữ liệu (CSDL) lớn liên thông, triển khai các dịch vụ công trực tuyến, ứng dụng các giải pháp CNTT hiện đại để quản lý, điều hành, dự báo, hỗ trợ ra quyết định một cách nhanh chóng, chính xác.
Trong dạy, học, kiểm tra, đánh giá gồm số hóa học liệu (sách giáo khoa điện tử, bài giảng điện tử, kho bài giảng e-learning, ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm), thư viện số, phòng thí nghiệm ảo, triển khai hệ thống đào tạo trực tuyến, xây dựng mô hình học ảo. Hiện nay, ngành giáo dục đã kết nối hơn 300 trường đại học, cao đẳng trên cả nước hoạt động thông suốt, ổn định, phát huy hiệu quả tích cực; số hóa gần 5.000 bài giảng điện tử e-learning có chất lượng, kho luận văn tiến sĩ với gần 7.000 luận văn, ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm với trên 31.000 câu hỏi, góp phần xây dựng xã hội học tập và đẩy mạnh học tập suốt đời.
Từ những chương trình, mục tiêu, giải pháp, cách thức tổ chức đã có, HĐBD đứng trước cơ hội thay đổi theo tình hình thực tiễn đặt ra trong bối cảnh người học ngày càng đa dạng cả về tuổi tác, lĩnh vực nghề nghiệp lẫn trình độ chuyên môn dựa trên nền tảng cơ sở pháp lý, hạ tầng cơ sở vật chất cũng như sự kế thừa tri thức từ nền tảng khoa học công nghệ cao.
2. Các yếu tố tác động đến chuyển đổi số trong hoạt động bồi dưỡng
Có sáu yếu tố ảnh hưởng, tác động trực tiếp đến HĐBD.
Trước tiên, đó là chiến lược, yếu tố này bao gồm chiến lược số hóa HĐBD huy động các nguồn lực, hợp tác liên ngành, đào tạo sư phạm, khoa học giáo dục, dữ liệu lớn và truyền thông. Đây là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới định hướng, lộ trình và kết quả của hoạt động CĐS.
Thứ hai, đó là yếu tố môi trường, để thực hiện thuận lợi, cho kết quả cao cần có chính sách, quy định, hướng dẫn thi hành cũng như hệ sinh thái số phù hợp để hoạt động diễn ra đúng như mục tiêu, chiến lược đặt ra.
Thứ ba, đó là yếu tố văn hóa như học tập suốt đời, vấn đề liêm chính trong học thuật, đạo đức nghiên cứu, sự cam kết quả các cấp quản lý và sự nhất quán trong chỉ đạo điều hành sẽ mang lại những nét văn hóa tốt đẹp thúc đẩy CĐS trong HĐBD.
Thứ tư, đó là yếu tố công nghệ như hạ tầng viễn thông, thiết bị phần cứng, phần mềm ứng dụng và yếu tố quản trị số. Đây là yếu tố căn cốt có tác động trực tiếp mạnh mẽ bởi việc số hóa thông tin và ứng dụng số hóa cần có sự phát triển công nghệ cả phần cứng và phần mềm để đáp ứng cho HĐBD trong bối cảnh mới.
Thứ năm, đó là yếu tố các bên liên quan như yếu tố sẵn sàng tiếp nhận của người học, người thực hiện quá trình CĐS, sự trải nghiệm của các chủ thể tham gia và sự tương tác của họ trong quá trình CĐS cũng là yếu tố quyết định đến sự hiệu quả trong triển khai trên thực tế.
Cuối cùng, nhân tố cơ bản, quyết định đến HĐBD là yếu tố con người, lãnh đạo quản lý, giảng dạy, kỹ thuật và dịch vụ phục vụ trực tiếp cho HĐBD cũng như quá trình CĐS cho chính hoạt động này.
Qua sự thể hiện của sáu yếu tố này, chúng ta thấy được những cơ hội CĐS trong HĐBD từ yêu cầu thực tiễn đặt ra. Trước hết, đó là đại dịch COVID -19 bùng phát và lan rộng trên toàn thế giới làm đứt gãy các chuỗi cung ứng trong lĩnh vực kinh tế, tạo sự giãn cách xã hội ở các mức khác nhau, tác động đến nhiều lĩnh vực đời sống xã hội, đặc biệt là vấn đề giáo dục của người dân ở các nước có dịch diễn ra. Sự thay đổi đó làm gia tăng sự thất nghiệp, chuyển đổi ngành nghề, người lao động cần tự bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp hoặc nâng cao hoặc đa dạng hóa lĩnh vực chuyên môn nhằm mở rộng cơ hội nghề nghiệp cho bản thân họ trong bối cảnh mới. Môi trường lao động thay đổi trong tình hình dịch bệnh với đa dạng hệ sinh thái số cũng là điều kiện để HĐBD phát triển.
Tiếp theo đó, nhận thức về vấn đề học tập suốt đời trong yếu tố văn hóa ngày càng được khẳng định, hạ tầng viễn thông phát triển với công nghệ truyền tải tốc độ cao 5G, sự phát triển của vạn vật kết nối Internet, công nghệ trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, điện toán đám mây và thực tế ảo, thực tế tăng cường cũng là cơ hội phát triển hạ tầng cho CĐS. Hơn nữa, trong xu hướng mới này, CĐS trong HĐBD còn được kế thừa nguồn nhân lực và các chiến lược từ đề án CĐS quốc gia mà HĐBD là một mắt xích quan trọng trong quá trình thực hiện những đề án này.
Từ trạng thái xã hội mới do ảnh hưởng của đại dịch gây ra, cơ hội CĐS là yếu tố tự thân, tất yếu. Tuy nhiên, để thay đổi trong một khoảng thời gian ngắn còn không ít những vấn đề tồn tại, gây cản trở. Đôi khi nhận thức, đánh giá vị trí vai trò của HĐBD chưa đúng mức trong bối cảnh mới; tâm lý ngại đổi mới ở nhiều bộ phận liên quan; chưa đánh giá hết và tận dụng được sức mạng của nền tảng công nghệ hiện đại, chưa xây dựng được hệ sinh thái đủ mạnh trong hoạt động giáo dục; nhận thức học tập suốt đời chưa đồng đều ở các ngành nghề, chỉ mới tập trung ở những ngành nghề có sự thay đổi, biến động lớn. Môi trường cho CĐS trong HĐBD như các chính sách, quy định chưa theo kịp với yêu cầu thực tiễn; nguồn nhân lực hỗ trợ cho quá trình CĐS còn hạn chế, chưa đáp ứng đủ trong khoảng thời gian ngắn. Trong đó, nhận thức của các cấp quản lý, các chủ thể tham gia HĐBD về CĐS đóng vai trò căn cốt thúc đẩy sự tiến bộ trong lĩnh vực này.
III. Một số gợi mở thúc đẩy chuyển đổi số trong hoạt động bồi dưỡng
1. Đưa những chủ chương, chính sách của Đảng về chuyển đổi số vào cuộc sống
Trước hết, để giải quyết những vấn đề đã nêu ra, chúng ta cần nghiêm túc nghiên cứu, triển khai, thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng vào thực tiễn cuộc sống. Nghị quyết đã nêu rõ về định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030 đó là: “đẩy mạnh CĐS quốc gia, phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, gắn kết hài hoà, hiệu quả thị trường trong nước và quốc tế”.
Đồng thời, với nhiệm vụ trọng tâm: “thực hiện CĐS quốc gia, phát triển kinh tế số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tạo động lực để phát triển kinh tế nhanh và bền vững”, cũng như xác định một trong những đột phá chiến lược đó là: “tạo nền tảng CĐS quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số”. Qua đó cho thấy, CĐS là xu hướng tất yếu để phát triển đất nước, một trong những ưu tiên hàng đầu đó là phát triển nguồn nhân lực con người, đáp ứng được những yêu cầu mới về kiến thức, kỹ năng ngày càng đa dạng, chuyên biệt theo sự phát triển của khoa học kỹ thuật.
Cụ thể hơn nữa, Nghị quyết số 52-NQ/TW của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã chỉ ra chính sách phát triển nguồn nhân lực một cách cụ thể, rõ ràng, đó là “Đổi mới cách dạy và học trên cơ sở áp dụng công nghệ số; lấy đánh giá của doanh nghiệp làm thước đo cho chất lượng đào tạo của các trường đại học trong lĩnh vực CNTT. Khuyến khích các mô hình giáo dục, đào tạo mới dựa trên các nền tảng số” cũng như “Có cơ chế khuyến khích và ưu đãi đối với các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp công nghệ tham gia trực tiếp vào quá trình giáo dục và đào tạo, tạo ra sản phẩm phục vụ cho nền kinh tế số. Xây dựng một số trung tâm giáo dục, đào tạo xuất sắc về công nghệ theo hình thức hợp tác công - tư. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, thu hút, sử dụng nhân tài, nguồn nhân lực chất lượng cao”. Đây là định hướng mở ra cho chúng ta hướng phát triển công cuộc CĐS trong giáo dục, đặc biệt là trong lĩnh vực bồi dưỡng ở các cơ sở giáo dục trong tình hình mới với yêu cầu ngày càng cấp thiết.
2. Xác định vị trí vai trò của hoạt động bồi dưỡng trong tình hình mới
Từ yêu cầu của thực tiễn khách quan, HĐBD ngày càng quan trọng hơn bên cạnh hoạt động đào tạo. Mỗi cơ sở đào tạo không chỉ chú trọng phát triển riêng lẻ từng hoạt động mà cần phải phát triển chúng trong mối quan hệ biện chứng, hỗ trợ lẫn nhau. Những kết quả, kinh nghiệm của hoạt động đào tạo cần được cô đọng, đúc rút, mở rộng và triển khai trong HĐBD. Bên cạnh đó, HĐBD với sự mềm dẻo, đa dạng dễ dàng triển khai trong những môi trường điều kiện khác nhau sẽ hỗ trợ, thúc đẩy và khẳng định vị trí vai trò của hoạt động đào tạo ở mỗi đơn vị. Giải quyết được mối quan hệ giữa hai hoạt động này là động lực thúc đẩy sự phát triển của HĐBD trong tình hình mới.
3. Nâng cao nhận thức về chuyển đổi số trong hoạt động bồi dưỡng
Để có được chiến lược phù hợp nhằm thúc đẩy CĐS trong HĐBD, trước hết cần thay đổi nhận thức của các chủ thể tham gia vào quá trình này thông qua các hoạt động cụ thể hoặc truyền thông đại chúng. Từ những nhận thức đúng đắn, sẽ có những những chiến lược phù hợp trong quản lý; trong dạy, học kiểm tra, đánh giá, nghiên cứu khoa học và cách thức triển khai cũng như các yếu tố khác tác động đến quá trình CĐS. Bên cạnh đó, cần xây dựng kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực có chuyên môn cao, đặc thù, có khả năng về ngoại ngữ, kiến thức về công nghệ đủ điều kiện tham gia vào quá trình CĐS trong HĐBD.
4. Tăng cường cơ sở pháp lý cho hoạt động bồi dưỡng
Tăng cường cơ sở pháp lý cho HĐBD là một trong những điều kiện tiên quyết xây dựng môi trường cho CĐS ở lĩnh vực này. Với những đặc thù của mình, HĐBD cần có những quy định, quy chế riêng, mềm dẻo, phù hợp và linh hoạt dễ thay đổi theo sự biến động của nhu cầu bồi dưỡng trong xã hội.
Đặc biệt, cần có những đơn vị chuyên trách có đủ cơ sở pháp lý, chức năng nhiệm vụ về công tác bồi dưỡng. Việc thành lập các trung tâm có chức năng phù hợp, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chuyên môn, ngoại ngữ, tin học đang được nhiều cơ sở giáo dục đại học trên cả nước thực hiện mang lại hiệu quả nhất định. Trong đó, có chú trọng bồi dưỡng năng lực ngoại ngữ, tin học cho người học có nhu cầu không chỉ trong cơ sở đào tạo mà còn cho những nhu cầu từ nhiều nguồn trong xã hội nhằm hoàn thiện kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp theo yêu cầu CĐS ở các lĩnh vực ngành nghề khác nhau.
5. Từng bước thực hiện số hóa, ứng dụng số hóa tiến đến chuyển đổi số trong hoạt động bồi dưỡng
Để thực hiện CĐS cần có lộ trình, kế hoạch thực hiện phù hợp tránh tình trạng lãng phí, làm ngược với thực tiễn khách quan; trước hết cần có kế hoạch, đầu tư từng bước số hóa bài giảng, quy trình, nghiệp vụ quản lý, xây dựng hệ thống học liệu điện tử phù hợp với các giai đoạn phát triển khác nhau song song với xây dựng môi trường và sự đầu tư các nguồn lực khác. Bên cạnh đó, cần tận dụng sự tiến bộ của khoa học công nghệ về tốc độ đường truyền, công nghệ thiết bị phần cứng, khai thác dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo để ứng dụng các phần mềm, hệ thống vào từng giai đoạn, từng khâu của quy trình bồi dưỡng nhằm tạo ra các phương pháp quản lý hiệu quả dựa trên thông tin đã được số hóa hoặc sử dụng hiệu quả các hình thức giảng dạy trực tuyến, từ xa, tự học dựa trên sự tương tác với hệ thống thông minh hay đánh giá kiểm tra, kiểm định với đa dạng cách thức mang lại hiệu quả thực tiễn cao.
6. Thay đổi nhận thức, tư duy và nâng cao năng lực thực hiện chuyển đổi số
Có thể nói, thực hiện CĐS thực sự làm thay đổi căn bản các quy trình, các điều kiện và nội dung của HĐBD. Do vậy, cần thay đổi nhận thức, tư duy của từng đối tượng tham gia vào quy trình này. Trước hết là các cấp quản lý để có chiến lược, chính sách và biện pháp phù hợp; các đối tượng phục vụ để nâng cao ý thức tổ chức, thực hiện đặc biệt là ý thức của người học về sự chủ động nghiên cứu dựa trên thông tin được mã hóa theo dạng thức mới hoặc những phương pháp, công cụ, công nghệ hiện đại được cung cấp trong HĐBD. Hoạt động tự bồi dưỡng năng lực ngoại ngữ, tin học và những kỹ năng thiết yếu khác cho các đối tượng tham gia chuyển đổi cần được đơn vị đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên có chủ điểm, chủ đích từ nhiều nguồn khác nhau cho từng giai đoạn phát triển sẽ tránh được sự thiếu hụt, lãng phí trong quá trình tổ chức thực hiện.
CĐS là xu hướng tất yếu của thực tiễn khách quan. Sự phát triển của khoa học công nghệ đã thay đổi quy trình sản xuất hàng hóa, nâng cao hoạt động giao vận thông minh dẫn đến vừa dư thừa lao động, vừa thiếu hụt lao động trong các ngành nghề đặc thù mới. Bên cạnh đó, sự đứt gãy các chuỗi liên kết trong sản xuất, vận chuyển, phân phối hàng hóa do tác động của dịch bệnh dẫn đến thay đổi cơ cấu lực lượng lao động. Điều tất yếu diễn ra là sự gia tăng của nhu cầu cập nhập, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng của người lao động. Do vậy, xác định vai trò của HĐBD, giải quyết những vấn đề còn tồn tại, thực hiện CĐS trong lĩnh vực này sẽ mang lại hiệu quả thiết thực, giúp cơ sở giáo dục đại học hoàn thành nhiệm vụ của mình./.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông tháng 4.2021
Bài liên quan
- Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên về học tập tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- Học viện Báo chí và Tuyên truyền tổ chức kỳ họp thứ III Hội đồng tư vấn chuẩn chương trình đào tạo trình độ đại học khối ngành Báo chí và thông tin
- Cải thiện chất lượng đào tạo ngành báo chí, truyền thông đáp ứng yêu cầu mới của người học hiện nay
- Bồi dưỡng phong cách công tác của chính ủy, chính trị viên ở Tổng cục Kỹ thuật, Bộ Quốc phòng hiện nay
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- 3 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 4 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 5 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 6 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Truyền thông về cơ hội phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu khi ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ ở đồng bằng sông Cửu long trên báo chí Việt Nam
Ngày 17/11/2017, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 120/NQ-CP về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu. Quan điểm chỉ đạo được nhấn mạnh trong Nghị quyết (NQ) là: “…chủ động thích ứng, phát huy tiềm năng, thế mạnh, chuyển hóa những thách thức thành cơ hội để phát triển, bảo đảm được cuộc sống ổn định…” (1). NQ này đã được các cơ quan liên quan, trong đó có các cơ quan báo chí quán triệt, triển khai thực hiện. Tuy nhiên, để “chuyển hóa những thách thức thành cơ hội”, nhất là với vùng đồng bằng sông Cửu Long, để phát triển bền vững, an toàn, thịnh vượng thì vai trò, trách nhiệm của báo chí cần được nhận thức đầy đủ, chủ động hơn.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên về học tập tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên về học tập tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Nghiên cứu dựa trên các điều tra khảo sát hàng năm của khoa Xã hội học và Phát triển đối với sinh viên đang học tập tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền nhằm đánh giá về nhiều vấn đề xã hội trong có đánh giá về giảng viên và cơ sở vật chất thông qua 48 biến số. Kết quả nghiên cứu năm 2024 với 734 sinh viên cho thấy, phần lớn sinh viên đánh giá ở mức cao hơn so với một số đánh giá của sinh viên tại các trường đại học khác. Có 7 nhóm yếu tố được đánh giá ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên về giảng viên và cơ sở vật chất gồm: Chất lượng giảng viên; Chuyên môn của giảng viên; Phương pháp dạy của giảng viên; Năng lực tổ chức môi trường học tập; Phẩm chất sư phạm của giảng viên; Cố vấn học tập; Cơ sở vật chất. Đối với biến phụ thuộc đo lường về sự hài lòng của sinh viên dựa trên thang đo niềm tin (được đánh giá với thang đo từ 0-9 điểm) thông qua 9 biến số về quản lý, giảng viên, cơ chế đào tạo, phương pháp giảng dạy, thư viện và cơ sở vật chất của giảng đường.
Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
Việc sử dụng ChatGPT để cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên chuyên ngành ngôn ngữ Anh mang lại nhiều lợi ích. Công cụ này giúp tăng cường tương tác, cá nhân hóa học tập và cung cấp tài liệu phong phú cho cả giáo viên và sinh viên. Sinh viên có thể tiếp cận ngữ pháp, từ vựng và kỹ năng viết một cách nhanh chóng và hiệu quả. Tuy nhiên, để tối ưu hóa lợi ích, giáo viên cần hướng dẫn sinh viên sử dụng ChatGPT một cách có ý thức, khuyến khích tư duy độc lập và tự đánh giá.
Học viện Báo chí và Tuyên truyền tổ chức kỳ họp thứ III Hội đồng tư vấn chuẩn chương trình đào tạo trình độ đại học khối ngành Báo chí và thông tin
Học viện Báo chí và Tuyên truyền tổ chức kỳ họp thứ III Hội đồng tư vấn chuẩn chương trình đào tạo trình độ đại học khối ngành Báo chí và thông tin
Chiều 25/10/2024, Học viện Báo chí và Tuyên truyền tổ chức kỳ họp thứ III Hội đồng tư vấn chuẩn chương trình đào tạo trình độ đại học khối ngành Báo chí và thông tin. Đây là phiên họp cuối cùng trong kế hoạch làm việc chung của Hội đồng để thống nhất thông qua Chuẩn chương trình đào tạo khối ngành Báo chí và thông tin, bước cuối cùng trước khi trình Bộ Giáo dục và Đào tạo xem xét, nghiệm thu theo quy định.
Cải thiện chất lượng đào tạo ngành báo chí, truyền thông đáp ứng yêu cầu mới của người học hiện nay
Cải thiện chất lượng đào tạo ngành báo chí, truyền thông đáp ứng yêu cầu mới của người học hiện nay
Học viện Báo chí và Tuyên truyền là cơ sở được đánh giá cao trong đào tạo nguồn nhân lực cho ngành báo chí, truyền thông trong nhiều năm qua. Nhưng trước những thay đổi mạnh mẽ của cách mạng 4.0 và công cuộc chuyển đổi số, những yêu cầu mới đã được đặt ra đối với lĩnh vực này, đòi hỏi nhân lực cũng phải có những phẩm chất và kỹ năng tương ứng. Từ việc khảo sát nhu cầu của người học, một số vấn đề đã được đặt ra và có thể trở thành cơ sở quan trọng để điều chỉnh hướng phát triển trong đào tạo ngành báo chí, truyền thông tại Học viện trong thời gian tới.
Bình luận