Phê phán luận điệu cho rằng “Việt Nam đánh đổi môi trường lấy kinh tế”!
Ngày 31/05/2023, trên blog với địa chỉ http://bon-phuong.blogspot.com có bài viết: “Không đánh đổi môi trường lấy lợi ích kinh tế ”- nói thì hay, nhưng…” của tác giả lấy tên là Song Chi. Từ việc kể ra một số dự án kinh tế có liên quan đến ô nhiễm môi trường ở Việt Nam như: “dự án khai thác Bauxite ở khu vực Tây Nguyên”, “vụ nhà máy thép Formosa, gây ô nhiễm môi trường cho các tỉnh miền Trung năm 2016”, bài viết đã cho rằng: “Các quan chức cộng sản ở Việt Nam… đã đánh đổi môi trường lấy kinh tế”(?!). Nguy hiểm hơn, tác giả bài viết còn trắng trợn nhận định và quy kết vô căn cứ: “Hậu quả là một mai khi chế độ độc tài toàn trị do đảng cộng sản cai trị sụp đổ thì đất nước này, dân tộc này chỉ còn lại một bãi Rác và một đống Nợ”(?!). Qua đây cho thấy, mục tiêu cuối cùng của luận điệu xuyên tạc, thù địch này là hòng làm giảm uy tín của Đảng thông qua lãnh đạo công tác bảo vệ môi trường (BVMT) và hòng xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta phải hết sức cảnh giác và cực lực lên án.
Trước hết, phải khẳng định rằng, môi trường và vấn đề BVMT luôn được Đảng và Nhà nước Việt Nam quan tâm. Ngay từ năm 1998, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 36-CT/TW về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong đó khẳng định: “Bảo vệ môi trường là một vấn đề sống còn của đất nước, của nhân loại”(1) và “Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân; bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tất cả các cấp, các ngành”(2).
Trong các Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Đảng ta cũng luôn dành dung lượng xứng đáng để chỉ đạo công tác BVMT, gắn BVMT với phát triển kinh tế - xã hội. Ngoài ra, Đảng cũng đã ban hành một số Nghị quyết chuyên đề chỉ đạo việc BVMT như: Nghị quyết 41-NQ/TW, ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị khóa IX về Bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nghị quyết số 09-NQ/TW, tháng 2/2007 của Hội nghị Trung ương 4 Khóa X về Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020, Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 3/6/2013 của Hội nghị Trung ương 7 Khóa XI về Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường… Mới đây, trong tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng chỉ rõ mục tiêu của bảo vệ môi trường ở Việt Nam trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là: “bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường”(3).
Thứ hai, Điều 43, Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam đã khẳng định: “Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường”. Quốc hội Việt Nam cũng đã xây dựng hệ thống văn bản pháp luật về BVMT khá đầy đủ và đồng bộ. Tính đến nay, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ở nước ta đã ban hành gần 600 văn bản có liên quan đến BVMT. Sau Luật Bảo vệ môi trường năm 1993, hàng loạt các văn bản Luật liên quan đến BVMT cũng được ban hành như: Luật Khoáng sản năm 1996; Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004; Luật Thủy sản năm 2003; Luật Đất đai năm 2003; đặc biệt là Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 sửa đổi và Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 cùng các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật. Đây là cơ sở pháp lý nhằm BVMT trong từng dự án phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ ba, Chính phủ Việt Nam triển khai và thực hiện quyết liệt các chương trình, kế hoạch về BVMT. Ngay từ năm 1991, khi nền kinh tế còn rất khó khăn, nhưng Việt Nam đã thông qua “Kế hoạch quốc gia về môi trường và phát triển lâu bền 1991-2000”. Năm 1992, Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam tham dự Hội nghị thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và Phát triển ở Rio de Janero (Braxin) đã ký Tuyên bố chung của thế giới về môi trường Chương trình Nghị sự 21 toàn cầu, trên cơ sở đó cam kết xây dựng Chiến lược phát triển bền vững quốc gia và chương trình nghị sự 21 địa phương; Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg về Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020; Quyết định số 622/QĐ-TTg về Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện chương trình Nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững. Sau gần 5 năm thực hiện chương trình nghị sự 2030, thứ hạng của Việt Nam về chỉ số phát triển bền vững liên tục tăng lên và xếp thứ 49/166 quốc gia xếp hạng vào năm 2020. Cuối tháng 10, đầu tháng 11/2021, Chính phủ Việt Nam đã tham dự Hội nghị COP26 tại Glassgow (Scotland, Vương quốc Anh). Tại Hội nghị, Việt Nam đã tiên phong trong bảo vệ môi trường khi cam kết giảm phát thải ròng về 0 vào năm 2050, giảm 30% lượng phát thải khí metan gây hiệu ứng nhà kính vào năm 2030.
Thứ tư, việc thực hiện chủ trương, chính sách về bảo vệ môi trường ở Việt Nam thời gian qua đã thu được nhiều thành tựu, đó là: “Hệ thống chính sách, pháp luật về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu được tiếp tục hoàn thiện và tập trung chỉ đạo thực hiện hiệu quả… Chủ động triển khai thực hiên Chương trình quốc gia và nhiều giải pháp về ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai đạt hiệu quả bước đầu… Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu được đẩy mạnh”(4).
Qua 5 năm thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội - môi trường (2016 -2020) cho thấy: “Một số chỉ tiêu môi trường đạt được và vượt kế hoạch. Tỷ lệ người dân đô thị được cung cấp nước sạch qua hệ thống cấp nước tập trung đến năm 2020 đạt khoảng 90%, tỷ lệ người dân nông thôn sử dụng nguồn nước ăn uống hợp vệ sinh ước đạt 90,2%, tăng mạnh so với năm 2015 (86%). Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường năm 2020 là 90%. Tỷ lệ che phủ rừng đến năm 2020 khoảng 42%, đạt mục tiêu kế hoạch đề ra”(5).
Bên cạnh đó, Việt Nam đã “Triển khai Chương trình mục tiêu ứng phó với bảo vệ môi trường và tăng trưởng xanh, chủ động cam kết giảm thiểu phát thải nhà kính. Đã xây dựng Chương trình cập nhật phân vùng rủi ro thiên tai, lập bản đồ cảnh báo thiên tai, đặc biệt là các thiên tai liên quan đến bão, nước biển dâng, lũ quét, sạt lở đất, hạn hán, xâm nhập mặn và Đề án phát triển các đô thị Việt Nam ứng phó với biến đổi khí hậu”(6). Đây là những kết quả thiết thực, đáng khích lệ trong công tác BVMT.
Thứ năm, để nâng cao chất lượng môi trường sống cho mọi người dân, Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành Quyết định số 2782/QĐ-BTMT ngày 31/10/2019 về Bộ chỉ số đánh giá kết quả bảo vệ môi trường các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Bộ chỉ số được cấu trúc thành hai nhóm: (1) Đánh giá kết quả thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ về BVMT (Bộ chỉ số nhóm I: 26 chỉ số) và (2) Đánh giá mức độ hài lòng của người dân về chất lượng môi trường sống (Bộ chỉ số nhóm II: 1 chỉ số). Bộ chỉ số viết tắt là PEP INDEX và đã được đưa vào đo lường và đánh giá chất lượng môi trường các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương từ năm 2020. Kết quả điều tra năm 2021, thành phố Đà Nẵng đứng đầu trong 63 tỉnh thành cả nước về thực hiện PEP INDEX với tổng điểm 79,82 điểm.
Những kết quả cả về lý luận và thực tiễn BVMT của Việt Nam nêu trên đã làm sáng rõ quan điểm về BVMT và quyết tâm chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam là: “lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe nhân dân là mục tiêu hàng đầu”(7); đây cũng là bằng chứng thuyết phục nhất phản bác những luận điệu xuyên tạc cho rằng Việt Nam không quan tâm tới BVMT, không chú ý tới môi trường sống của người dân, là “đánh đổi môi trường lấy kinh tế”…
Trong thời gian tới, để có môi trường sống trong lành, chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam là: “xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”(8); đồng thời, “Quản lý chặt chẽ, bảo vệ và phục hồi rừng tự nhiên gắn với bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ cảnh quan, môi trường sinh thái. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng trồng rừng”(9); “Có kế hoạch khắc phục căn bản tình trạng hủy hoại, làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường của các cơ sở sản xuất, các khu công nghiệp, khu đô thị”(10); “Chủ động, tích cực hợp tác quốc tế trong việc chia sẻ thông tin”(11).
____________________________________________________
(1) (2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Websie: www.cpv.org.vn, ngày 02/12/2008.
(3) Nguyễn Phú Trọng (2022), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H., tr.21.
(4), (7), (8), (9), (10), (11) Ðảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, T.I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H., tr.66 - 67, 117, 117, 242, 154, 155.
(5), (6) Ðảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, T.II, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H., tr.50 -51, 51.
Nguồn: Bài đăng trên trang điện tử Việt Nam thịnh vượng ngày 22/09/2023
Bài liên quan
- Giáo dục liêm chính cho đội ngũ cán bộ, công chức nhằm phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay
 - Vai trò của Đảng Hành động Nhân dân trong quá trình hiện đại hóa Singapore và giá trị tham chiếu đối với Đảng Cộng sản Việt Nam
 - Nhận diện, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
 - Nâng cao chất lượng công tác giáo dục phẩm chất chính trị trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng cho sinh viên chuyên ngành Triết học
 - Phát huy vai trò của báo chí trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
 
Xem nhiều
- 
                                                1
                                                Quảng bá di sản văn hóa phi vật thể trên các kênh truyền thông số: Đặc trưng và những yêu cầu đặt ra
                                                
                                                    
                                                
                                             - 
                                                2
                                                Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thông tin về sách giáo khoa trên báo mạng điện tử Việt Nam
                                                
                                                    
                                                
                                             - 
                                                3
                                                Phát triển lực lượng sản xuất chất lượng mới ở Việt Nam hướng tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa
                                                
                                                    
                                                
                                             - 
                                                4
                                                Diễn ngôn truyền thông về “Vành đai, Con đường”: So sánh giữa Trung Quốc và Đông Nam Á
                                                
                                                    
                                                
                                             - 
                                                5
                                                Thực trạng chất lượng truyền thông bằng hình ảnh trên chuyên trang media của báo Lao Động điện tử
                                                
                                                    
                                                
                                             - 
                                                6
                                                Đầu tư cơ sở vật chất tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong giai đoạn hiện nay
                                                
                                                    
                                                
                                             
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
 - Báo nhân dân
 - Báo Quân đội nhân dân
 - Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
 - Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
 - Tạp chí Cộng sản
 - Tạp chí Giáo dục lý luận
 - Tạp chí Giáo dục và Xã hội
 - Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
 - Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
 - Tạp chí Lý luận chính trị
 - Tạp chí Nghiên cứu con người
 - TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
 - Tạp chí Người làm báo
 - Tạp chí Nội chính
 - Tạp chí Quản lý Nhà nước
 - Tạp chí Tổ chức Nhà nước
 - Tạp chí Tuyên giáo
 - Tạp chí Xây Dựng Đảng
 - Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
 - Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
 
Ảnh hưởng của tính minh bạch và cá nhân hóa trong nền tảng VieON đến sự hài lòng của người dùng
Nghiên cứu này kiểm định mô hình mối quan hệ giữa nhận thức về đề xuất nội dung, cảm nhận kiểm soát, mức độ hài lòng và ý định tiếp tục sử dụng, với trường hợp điển hình là VieON. Khảo sát trực tuyến được thực hiện với 224 người dùng, sử dụng các thang đo đã kiểm định qua Cronbach’s Alpha, EFA, phân tích tương quan và hồi quy tuyến tính, đồng thời kiểm soát các biến giới tính, độ tuổi và tần suất sử dụng. Kết quả cho thấy độ phù hợp và minh bạch (FT) là yếu tố quyết định cả sự hài lòng và ý định sử dụng, trong khi tính hữu ích của gợi ý (RU) chỉ có tác động bổ sung và không còn ý nghĩa khi dự báo sự hài lòng. Mức độ hài lòng (SAT) không giữ vai trò trung gian quan trọng, do ảnh hưởng trực tiếp mạnh mẽ từ FT và RU. Các đặc điểm nhân khẩu học cũng tạo ra khác biệt đáng kể. Nghiên cứu khẳng định minh bạch và cá nhân hóa trong hệ thống gợi ý là đòn bẩy chiến lược giúp các nền tảng OTT củng cố niềm tin và lòng trung thành của người dùng.
Giáo dục liêm chính cho đội ngũ cán bộ, công chức nhằm phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay
Giáo dục liêm chính cho đội ngũ cán bộ, công chức nhằm phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay
Trong những năm gần đây, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng (PCTN) ở Việt Nam đã được đẩy mạnh, với quyết tâm chính trị cao, và trên thực tế cũng đã đạt nhiều kết quả khả quan. Tuy nhiên, vẫn xảy ra tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức; tình trạng tham nhũng vẫn có những diễn biến phức tạp. Thực tế đó đặt ra yêu cầu phải tăng cường các biện pháp phòng ngừa tham nhũng từ gốc. Một giải pháp mang tính nền tảng là phải giáo dục liêm chính cho đội ngũ cán bộ, công chức. Đây được xem là chìa khóa giúp định hình phẩm chất “gốc” cho cán bộ, công chức, giúp xây dựng văn hóa “không muốn tham nhũng” ngay từ trong nhận thức của mỗi cá nhân.
Vai trò của Đảng Hành động Nhân dân trong quá trình hiện đại hóa Singapore và giá trị tham chiếu đối với Đảng Cộng sản Việt Nam
Vai trò của Đảng Hành động Nhân dân trong quá trình hiện đại hóa Singapore và giá trị tham chiếu đối với Đảng Cộng sản Việt Nam
Bài viết tập trung vào ba nội dung chính: (1) Phân tích sự hình thành và phát triển của Đảng Hành động Nhân dân, nhấn mạnh những yếu tố then chốt tạo nên sức mạnh và sự bền vững của Đảng; (2) Phân tích những ưu điểm nổi bật trong chủ trương, chính sách của Đảng Hành động Nhân dân đã giúp Singapore đạt được thành tựu như ngày nay; (3) Từ đó, rút ra những giá trị tham chiếu cho Đảng Cộng sản Việt Nam và đề xuất các giải pháp cụ thể để vận dụng những giá trị đó, nhằm thúc đẩy Việt Nam phát triển trong kỷ nguyên mới.
Nhận diện, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhận diện, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và bùng nổ thông tin, các thế lực thù địch gia tăng hoạt động chống phá, xuyên tạc và phủ nhận Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam. Trước tình hình đó, việc nhận diện đúng các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch là yêu cầu cấp thiết, tạo cơ sở lý luận và thực tiễn cho công tác đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, bảo vệ Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Nâng cao chất lượng công tác giáo dục phẩm chất chính trị trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng cho sinh viên chuyên ngành Triết học
Nâng cao chất lượng công tác giáo dục phẩm chất chính trị trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng cho sinh viên chuyên ngành Triết học
Trong bối cảnh hiện nay, các thế lực thù địch không ngừng tăng cường thực hiện những âm mưu, thủ đoạn nhằm chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng, gây mất niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Do đó, việc giáo dục và rèn luyện phẩm chất chính trị cho thế hệ trẻ trở thành nhiệm vụ cấp thiết. Đặc biệt, với sinh viên chuyên ngành Triết học tại các trường đại học trên địa bàn Hà Nội- những người được học tập, nghiên cứu và được đào tạo chuyên sâu về lý luận sẽ là đội ngũ trực tiếp tham gia và có nhiều đóng góp trong công cuộc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Vì vậy, yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục phẩm chất chính trị cho sinh viên chuyên ngành Triết học càng trở nên có ý nghĩa chiến lược. Bài viết tập trung phân tích thực trạng, chỉ ra những hạn chế, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả công tác giáo dục phẩm chất chính trị, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới.
          
        
                
        
 llcttt1994dientu@gmail.com          
 024.38348033          
                                                
                                                
                                                
                                                
                                                
                                                
                                
                                
                                
                                
                                        
                                            
                                            
                                            
                                            
                                            
                                            
                                            
Bình luận