Quảng Ninh đưa nội dung giáo dục Di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long vào trường học
Hạ Long là một vùng cảnh quan tuyệt đẹp có biển, trời trong xanh, mênh mông, huyền ảo với những hòn đảo mang nhiều hình dáng kỳ thú vừa hùng vĩ, hoành tráng vừa duyên dáng thơ mộng làm xao xuyến lòng người. Ở trong lòng núi đảo của Hạ Long lại có hàng trăm hang động đẹp nổi tiếng như: Thiên Cung, Đầu Gỗ, Sửng Sốt, Trinh Nữ, Tam Cung, Tiên Ông, Kim Quy, Hoa Cương...
Hạ Long là vùng biển đảo có hệ sinh thái đa dạng, đến nay đã xác định được trên 400 loài cá, 500 loài động vật đáy, 160 loài san hô, 355 loài sinh vật phù du, 140 loài rong biển, 34 loài thực vật ngập mặn ...
Hạ Long còn là một vùng thiên nhiên đầy những huyền thoại, là cái nôi cư trú của người Việt Nam cổ với 3 nền văn hoá tiền sử nối tiếp nhau phát triển từ hậu kỳ đá cũ đến sơ kỳ kim khí cách đây từ 17.000 năm đến 2.500 năm.
Vịnh Hạ Long đã được tổ chức UNESCO hai lần công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới về giá trị vẻ đẹp tự nhiên kỳ ảo và độc đáo ngoại hạng có tính toàn cầu về cảnh quan năm 1994 và Giá trị kiến tạo địa chất, địa mạo Karst năm 2000.
Quảng Ninh đang tiếp tục đề nghị UNESCO công nhận Di sản thiên nhiên thế giới lần thứ 3 toàn bộ vùng vịnh Hạ Long, vì trước đây khu vực di sản được công nhận mới chỉ có một phần trong vùng Vịnh gồm: một phần vùng biển thành phố Hạ Long, vùng biển Cẩm Phả và huyện Vân Đồn.
Là Di sản thiên nhiên thế giới, Vịnh Hạ Long không chỉ là tài sản của Quảng Ninh, của Việt Nam mà trở thành tài sản vô giá của toàn nhân loại nên cả cộng đồng quốc tế đều có trách nhiệm giám sát, giữ gìn, bảo tồn. Tuy nhiên, đối với tỉnh Quảng Ninh, các ngành chức năng của Nhà nước và cộng đồng Việt Nam trách nhiệm bảo tồn, phát huy giá trị di sản là quan trọng.
Bảo tồn Di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long là phải bảo vệ nguyên vẹn di sản gồm: núi đá, hang động, bãi tắm, san hô, hệ thống động thực vật trong nước, trên đảo, nguồn gen, môi trường nước và cảnh quan tự nhiên. Phải giữ nguyên vẻ hoang sơ như vốn có của nó, không làm biến dạng cảnh quan. Đồng thời tu bổ, tôn tạo trả lại những giá trị bền vững, toàn vẹn và đa dạng của tự nhiên mà thiên nhiên và con người đã xâm hại.
Hiện nay, khu vực di sản nằm trong tam giác chiến lược phát triển kinh tế của miền Bắc, là nơi có bể than rộng lớn lộ thiên; với Quảng Ninh là vùng có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế công nghiệp, phát triển đô thị, khai thác kinh tế biển, du lịch... Cảnh quan di sản bị đe doạ bởi các hoạt động sản xuất, phát triển kinh tế, mở rộng đô thị... gây ra, nhất là các chất thải dân sinh, công nghiệp làm ô nhiễm môi trường.
Nhận thức được vinh dự và trách nhiệm trực tiếp giữ gìn, tôn tạo để Vịnh Hạ Long mãi mãi xứng đáng là một di sản vô giá của nhân loại, của thế hệ Việt Nam hôm nay và con cháu mai sau, Tỉnh uỷ, ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã có Chỉ thị số 28/2000/CT-UB “về việc đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục cộng đồng tham gia bảo tồn di sản” và Nghị quyết 09-NQ/TU “về công tác quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị di sản Vịnh Hạ Long đến năm 2005” cùng nhiều văn bản chỉ đạo khác đối với các cơ quan chức năng của tỉnh nhằm giáo dục cộng đồng tham gia giữ gìn, bảo tồn di sản. Nhất là đối với học sinh trong các trường học. Đây là đối tượng đông đảo có thể làm tốt công tác tuyên truyền về giá trị di sản trong gia đình và cộng đồng, đồng thời cũng là là lực lượng trực tiếp bảo vệ, giữ gìn thiết thực và có hiệu quả nhất.
Với trách nhiệm của mình, Sở Giáo dục và Đào tạo và Ban Quản lý Vịnh Hạ Long đã bàn biện pháp đưa chương trình, nội dung, giáo dục Di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long vào nhà trường và thành lập Ban chỉ đạo chương trình giáo dục di sản trong trường học cùng với sự giúp đỡ, cố vấn của Tổ chức bảo tồn động, thực vật quốc tế (FFI). Trách nhiệm của từng ngành và nhiệm vụ của các thành viên được phân công cụ thể. Ban Quản lý Vịnh Hạ Long chịu trách nhiệm về nội dung, tài liệu giảng dạy tham quan Vịnh. Sở Giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm về tập huấn giáo viên, xây dựng kế hoạch thời gian, chương trình, kiểm tra việc giảng dạy; Tổ chức bảo tồn động, thực vật quốc tế (FFI) chịu trách nhiệm tài liệu, in ấn tài liệu và cố vấn chương trình.
Mục đích của chương trình giảng dạy được xác định rõ là giáo dục cho học sinh hiểu rõ:
- Giá trị nổi bật của Di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long.
- Những quy định bảo vệ và yêu cầu giữ gìn lâu dài di sản.
- Vai trò và trách nhiệm của các thế hệ học sinh trong tuyên truyền, bảo vệ di sản.
Năm học 2001 - 2002, Quảng Ninh bắt đầu việc giảng dạy ở 6 trường thuộc 3 cấp học của thành phố Hạ Long. Tài liệu giảng dạy do Ban chỉ đạo soạn thảo. Phương pháp giảng dạy được lồng ghép trong chương trình giáo dục về lịch sử, địa lý địa phương, trong giờ giáo dục công dân, giờ sinh hoạt lớp, sinh hoạt Đoàn, Đội. Việc học tập của học sinh diễn ra sôi nổi, hào hứng, bước đầu đã có những chuyển biến tốt trong nhận thức và hành vi đối xử với di sản.
Từ thực tế giảng dạy ở 6 trường, Ban chỉ đạo đã tổ chức hội thảo về nội dung, phương pháp giảng dạy, tiến tới soạn thảo bộ tài liệu chính thức về di sản cho cả 3 cấp học phổ thông.
Năm học 2002 - 2003, Quảng Ninh tiếp tục dạy môn Di sản Hạ Long ở các trường phổ thông trong địa bàn thành phố Hạ Long với bộ tài liệu mới biên soạn. Để việc học tập của học sinh đạt hiệu quả cao hơn, Sở Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo các trường dạy mỗi tháng 2 bài về giáo dục di sản và được coi là một môn học độc lập như các môn học khác, không học lồng ghép như trước. Thời gian học đối với học sinh tiểu học vào giờ sinh hoạt lớp; các lớp trung học cơ sở và trung học phổ thông vào giờ lịch sử hoặc địa lý địa phương.
Năm học 2003 - 2004 việc dạy môn giáo dục di sản Vịnh Hạ Long được mở rộng tiếp ở các trường trung học của 4 huyện, thị xã là: Cẩm Phả, Yên Hưng, Vân Đồn và Cô Tô. Đến nay đã có 1.692 lớp tiểu học, 1.076 lớp trung học cơ sở và 460 lớp trung học phổ thông và 3.228 cán bộ, giáo viên các cấp tham gia giảng dạy và học tập bộ môn này. Đáng kể nhất là Quảng Ninh đã biên soạn được một bộ tài liệu học tập riêng cho các lớp học phổ thông gồm: 1.700 bộ thuộc bậc tiểu học, 1.200 bộ cho trung học cơ sở và 500 bộ cho trung học phổ thông. Theo đánh giá của các nhà sư phạm và cán bộ nghiên cứu giáo dục, bộ tài liệu này mang tính giáo khoa, đảm bảo tính khoa học, tính sư phạm, tính thẩm mỹ và tính thực tiễn. Cấu trúc mỗi bài trong tài liệu gồm từ 3 đến 5 hoạt động cụ thể. Hệ thống kênh chữ và kênh hình bố trí hợp lý ở các cấp học. Bộ tài liệu đã được thẩm định và nghiệm thu, in ấn và phát hành.
Ngoài việc giảng dạy và học tập trên lớp, các trường đã có sáng kiến tổ chức nhiều hình thức ngoại khoá như: làm báo tường, thi thơ, thi vẽ tranh về cảnh đẹp Hạ Long, triển lãm tranh của các em, tập làm hướng dẫn viên du lịch, tham quan Vịnh và các hang động... làm cho học sinh có điều kiện tiếp xúc với thiên nhiên Vịnh Hạ Long, tận mắt ngắm nhìn cảnh đẹp hùng vĩ, thơ mộng của biển, đảo, trời nước... đồng thời tạo cho các em điều kiện để thể hiện hành vi của mình như gom rác làm sạch môi trường, hướng dẫn khách du lịch ý thức bảo vệ cảnh quan...
Có thể nói, việc đưa nội dung giáo dục bảo tồn Di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long vào trường học ở Quảng Ninh đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Nhà trường đã cung cấp kiến thức, hình thành kỹ năng, thói quen văn hoá cũng như giáo dục ý thức trách nhiệm, tình yêu, niềm tự hào cho học sinh về Vịnh Hạ Long; giúp các em có suy nghĩ và hành vi đúng đắn trước di sản, và là những tuyên truyền viên về bảo tồn di sản trong gia đình và cộng đồng. Hoạt động của nhà trường đã được nhân dân hoan nghênh và được Tổ chức bảo tồn động, thực vật thế giới (FFI) và UNESCO đánh giá cao./.
_____________________
Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền số 3 (tháng 5+6).2005
Nguyễn Hoàng Lam
Bài liên quan
- Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
- Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
- Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
- Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
- Quản lý hình ảnh về phụ nữ dân tộc thiểu số Việt Nam trên các sản phẩm báo ảnh tại Thông tấn xã Việt Nam hiện nay
Xem nhiều
-
1
[Video] Dấu ấn Cách mạng Tháng Tám qua những hiện vật lịch sử
-
2
Những yêu cầu và nguyên tắc phát triển báo chí – truyền thông trong kỷ nguyên mới
-
3
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
-
4
Truyền thông đại chúng trong kỷ nguyên số: động lực đổi mới mô hình phát triển xã hội Việt Nam hiện nay
-
5
Tác động của quảng cáo sản phẩm trên mạng xã hội đến hành vi mua sắm của học sinh trung học phổ thông Hà Nội
-
6
Báo chí với xây dựng văn hóa số ở Việt Nam hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Phát huy vai trò của báo chí trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng, “kim chỉ nam” dẫn dắt dân tộc Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong bối cảnh mới, công cuộc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là cuộc chiến của lý luận, để bảo vệ lý tưởng và củng cố niềm tin vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Trước sự chống phá của các thế lực thù địch ngày càng gia tăng cả về quy mô lẫn mức độ tinh vi, nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trở nên cấp bách hơn; trong đó, báo chí đóng vai trò hết sức quan trọng.
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
Trong suốt hơn hai thập kỷ đầu thế kỷ XXI, tên của Tổng thống Vladimir Putin đã trở thành biểu tượng gắn liền với tiến trình phát triển và chuyển mình của Liên bang Nga. Từ một quốc gia đối mặt với khủng hoảng kinh tế - chính trị nghiêm trọng sau khi Liên Xô tan rã, nước Nga dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Putin đã từng bước khôi phục ổn định, nâng cao vị thế quốc tế và củng cố bản sắc quốc gia. Dù vẫn còn không ít tranh cãi, không thể phủ nhận rằng Tổng thống Vladimir Putin đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử nước Nga hiện đại như một nhà lãnh đạo có ảnh hưởng lớn lao và lâu dài. Bài viết được thực hiện với mục đích phân tích các giai đoạn cầm quyền của ông, từ đó làm rõ những đóng góp, lựa chọn chiến lược và quyết sách của Ông đối với vận mệnh quốc gia. Qua đó, góp phần lý giải vì sao Tổng thống Vladimir Putin được xem là “người sẽ cứu nước Nga” trong thời kỳ chuyển giao và định hình bản sắc, quyền lực quốc gia hậu Xô Viết.
Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Công cuộc tinh gọn bộ máy nhà nước là một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm hiện thực hóa mục tiêu xây dựng nền hành chính nhà nước hiện đại, hiệu lực, hiệu năng, hiệu quả, phục vụ nhân dân. Trong tiến trình đó, công tác cán bộ đóng vai trò trung tâm, bởi cán bộ chính là người tổ chức và thực thi cải cách. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, công tác cán bộ hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, chưa thực sự tương xứng với yêu cầu đổi mới bộ máy nhà nước. Bài viết tiếp cận vấn đề từ nền tảng lý luận Mác, Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn kiện Đảng để phân tích những vấn đề lý luận, thực tiễn trong đổi mới công tác cán bộ, từ đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu cải cách hệ thống chính trị trong bối cảnh mới.
Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
Trong bối cảnh chuyển đổi số y tế đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn quốc, một số bệnh viện tuyến trung ương đã bước đầu ứng dụng truyền thông số hiệu quả trong tư vấn tâm lý – xã hội, kết nối cộng đồng và vận động nguồn lực, tuy nhiên, phần lớn bệnh viện tuyến tỉnh, huyện chưa có điều kiện triển khai đầy đủ. Bài viết đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm tích hợp truyền thông số vào hoạt động công tác xã hội (CTXH) tại bệnh viện, góp phần định hướng phát triển CTXH bệnh viện theo hướng chuyên nghiệp, công bằng và thích ứng với bối cảnh số hóa y tế đến năm 2030.
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
Theo thống kê trong giai đoạn từ 2013 – 2023 cho thấy độ tuổi kết hôn trung bình của người dân đang có xu hướng tăng(1). Vì vậy, nhóm tác giả đã thực hiện nghiên cứu nhằm làm rõ những nhân tố ảnh hưởng tới hành vi này tại Việt Nam. Bài nghiên cứu chỉ ra sự thay đổi trong độ tuổi kết hôn của người dân Việt Nam, đồng thời phân tích rõ ảnh hưởng của những nhân tố như trình độ học vấn, nền tảng gia đình, địa lý, chi phí sinh hoạt, thu nhập, nghề nghiệp và truyền thông tới việc trì hoãn kết hôn, thông qua dữ liệu từ cuộc khảo sát gồm 736 người trong độ tuổi từ 18 – 35, trải rộng khắp các vùng miền của Việt Nam. Qua đó, nhóm tác giả nêu lên một số đánh giá về tác động của hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ tới sự phát triển của kinh tế - xã hội. Sau cùng, nhóm tác giả đề xuất giải pháp để giải quyết vấn đề trì hoãn kết hôn của người trẻ Việt Nam hiện nay.
Bình luận