Tác động của tăng trưởng kinh tế đến giảm nghèo ở Việt Nam giai đoạn 2001-2020
1. Tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo lý thuyết và thực tiễn
Tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên về giá trị sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm. Sự tăng trưởng thể hiện ở quy mô và tốc độ, quy mô phản ánh sự tăng nhiều hay ít, tốc độ phản ánh sự tăng nhanh hay chậm. Tăng trưởng kinh tế được đo lường bằng các chỉ tiêu như tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP) và thu nhập bình quân đầu người (GDP/ người hay GNI/người). Bản chất của tăng trưởng kinh tế là phản ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh tế.
Nghèo là một khái niệm rất rộng, có nhiều quan niệm khác nhau về nghèo, phụ thuộc vào cách nhìn nhận, cách tiếp cận. Tại Hội nghị quốc tế về vấn đề đói nghèo tại Thái Lan năm 1993, khái niệm về nghèo được đưa ra như sau: “nghèo là tình trạng một bộ phận dân số không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của từng địa phương”. Quan niệm về nghèo này xuất phát từ việc tiếp cận thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người như ăn, mặc ở, học hành, khám chữa bệnh…, sự thiếu hụt một hoặc một số nhu cầu đó được coi là nghèo.
Chuẩn nghèo là thước đo đói nghèo, đó là mức giới hạn mà cá nhân hay hộ gia đình nằm dưới mức đó sẽ bị coi là nghèo. Chuẩn nghèo bao gồm nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối. Nghèo tuyệt đối là chuẩn tuyệt đối về mức sống được coi là tối thiểu cần thiết để cá nhân hoặc hộ gia đình có thể tồn tại khỏe mạnh. Nghèo tương đối phản ánh tình trạng của một bộ phận dân cư sống dưới mức trung bình của cộng đồng.
Ngân hàng thế giới (World Bank) đưa ra mức chuẩn nghèo thế giới là 1,9 USD/người/ngày; 3,2 USD/người/ngày và 5,5 USD/ người/ngày. Tùy thuộc vào thu nhập, trình độ phát triển mà các quốc gia thiết lập chuẩn nghèo quốc gia riêng của mình. Đối với Việt Nam, chuẩn nghèo được điều chỉnh sau mỗi 5 năm, từ năm 2015 Việt Nam tiếp cận chuẩn nghèo theo hướng nghèo đa chiều. Chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2021-2025 bao gồm: tiêu chí thu nhập: chuẩn nghèo ở khu vực nông thôn là 1.500.000đồng/ người/tháng, khu vực thành thị là 2.000.000 đồng/người/tháng; tiêu chí mức độ thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản gồm việc làm, y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, thông tin.
Chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản gồm 12 chỉ số: việc làm, người phụ thuộc trong hộ gia đình, dinh dưỡng, BHYT, trình độ giáo dục của người lớn, tình trạng đi học của trẻ em, chất lượng nhà ở, diện tích nhà ở bình quân đầu người, nguồn nước sinh hoạt, nhà tiêu hợp vệ sinh, sử dụng dịch vụ viễn thông, phương tiện phục vụ tiếp cận thông tin. Tiêu chí dịch vụ xã hội cơ bản, chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản và ngưỡng thiếu hụt theo quy định(1). Giảm nghèo là cách làm một bộ phận dân số tăng mức sống và dần dần thoát nghèo hay giảm nghèo thực chất là một quá trình đưa bộ phận dân số nghèo có mức sống cao hơn.
Theo Chương trình phát triển của Liên hiệp quốc (UNDP), tăng trưởng kinh tế có lợi cho người nghèo là tăng trưởng đưa đến phân phối lại thu nhập có lợi cho người nghèo. Theo Ngân hàng Châu Á (ADB) thì tăng trưởng kinh tế có lợi cho người nghèo khi đó là dạng tăng trưởng tận dụng lao động và kèm theo bằng những chính sách và chương trình giảm thiểu những bất bình đẳng, thúc đẩy tạo việc làm, tăng thu nhập cho người nghèo, đặc biệt là cho phụ nữ và các nhóm xã hội bị cô lập. Thực chất tăng trưởng kinh tế có lợi cho người nghèo là tăng trưởng tối đa hóa tác động tích cực của tăng trưởng trong việc giảm nghèo. Một chiến lược tăng trưởng có lợi cho người nghèo không chỉ tập trung vào tăng trưởng kinh tế mà còn tác động đến mô hình phân phối thu nhập để người nghèo được hưởng lợi từ tăng trưởng theo một tỷ lệ lớn hơn người giàu, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo.
Như vậy, để thực hiện giảm nghèo ngoài tăng trưởng kinh tế còn có các yếu tố khác như mô hình tăng trưởng, bất bình đẳng phân phối thu nhập, quá trình đô thị hóa, thất nghiệp, cơ hội việc làm, dân số, tự do hóa thương mại, chính sách kinh tế - xã hội trợ cấp cho người nghèo, nỗ lực của bản thân người nghèo… cũng tác động đến giảm nghèo.
2. Tác động của tăng trưởng đến giảm nghèo ở Việt Nam
Trong 20 năm qua, Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa có sự ổn định. Theo số liệu thống kê thì tốc độ tăng trưởng có bị suy giảm trong năm 2008, 2009 và 2012, 2013. Sự suy giảm này là do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và khủng hoảng nợ công ở một số nước châu Âu. Tính bình quân giai đoạn 2001-2020, tốc độ tăng trưởng đạt 6,6%/ năm, trong đó tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2001-2010 đạt trung bình 7,3%/năm, cao hơn so 5,9% bình quan trong giai đoạn 2011-2020. Mặc dù bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19, Việt Nam là một trong số ít nước trên thế giới giữ được tốc độ tăng trưởng dương (2,91%), hầu hết các nước trên thế giới có tốc độ tăng trưởng kinh tế âm.
Năm 2020, quy mô GDP của Việt Nam là 343 tỷ USD vượt Singapore (337,5 tỷ USD) và Malaysia (336,3 tỷ USD) để trở thành quốc gia có nền kinh tế thứ 4 ASEAN sau Indonesia (1.088,8 tỷ USD), Thái Lan (509,2 tỷ USD) và Philippines (367,4 tỷ USD). Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam năm 2020 là 3521 USD/năm.
Cùng với thành tựu của tăng trưởng kinh tế, Việt Nam đã đạt được thành công trong giảm nghèo, cụ thể tỷ lệ nghèo giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 28,9% năm 2002 và 3,7% năm 2019, dự báo sẽ giảm xuống còn 2,7% năm 2020. Bình quân 5 năm giai đoạn 2016-2020 tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước giảm khoảng 1,43%. Ngân hàng Thế giới đã đánh giá Việt Nam là bài học thành công trong cải cách và giảm nghèo.
Sau mỗi giai đoạn 5 năm có sự điều chỉnh chuẩn nghèo thì tỷ lệ nghèo tăng lên, cụ thể, giai đoạn 2011-2015, Việt Nam có sự điều chỉnh chuẩn nghèo đối với thành thị thu nhập tăng từ 260.000 đồng/người/tháng lên 500.000 đồng /người/tháng, với nông thôn tăng từ 200.000 đồng/người/tháng lên 400.000 đồng/người/ tháng, tỷ lệ nghèo tăng từ 9,45% năm 2010 lên 14,2% năm 2011. Giai đoạn 2016-2020, chuẩn nghèo được tiếp cận theo chuẩn nghèo đa chiều, chuẩn nghèo được điều chỉnh đối với khu vực thành thị là 900.000 đồng/người/tháng, và nông thôn là 700.000 đồng/người/tháng, tỷ lệ nghèo tăng từ 4,5% năm 2015 lên 8,23% năm 2016.
Tăng trưởng kinh tế trong những năm qua được đánh giá có tác động tích cực đến giảm nghèo. Mức độ tác động tăng trưởng kinh tế đến giảm nghèo có sự khác nhau giữa các thời kỳ. Thập niên 1990s tăng trưởng kinh tế có tác động đến giảm nghèo nhiều hơn thập niên 2000s. Cứ 1% tăng trong GDP đầu người có thể làm tỷ lệ nghèo 0,95% thập niên 1990s, trong khi chỉ làm giảm tỷ lệ nghèo 0,82% thập niên 2000s(2). Trong 2 năm 2008 và 2009 tốc độ giảm nghèo thấp hơn so với năm trước đó là do tốc độ tăng trưởng giảm. Thu Hang Pham (2019)(3) nghiên cứu mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo giai đoạn 2010-2016 nhận định rằng tăng trưởng kinh tế không có tác động nhiều đến giảm nghèo. Giảm nghèo trong giai đoạn này chịu tác động của sự tăng trưởng các ngành trong nền kinh tế như ngành nông nghiệp và ngành công nghiệp, cũng như chịu sự tác động của đô thị hóa, tốc độ tăng dân số, cơ hội việc làm.
Số liệu thống kê cho thấy trong những năm gần đây cùng với tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ giảm nghèo có giảm, tuy nhiên tốc độ giảm có xu hướng giảm dần. Điều đó có nghĩa là lợi ích từ tăng trưởng kinh tế mang lại cho người nghèo ngày càng giảm. Lý do là bất bình đẳng trong phân phối thu nhập ở Việt Nam có xu hướng tăng. Theo số liệu thống kê thì tỷ lệ thu nhập của 20% dân số giàu nhất và 20% dân số nghèo nhất tăng trong 20 năm qua, cụ thể tỷ lệ này là 8 lần trong giai đoạn 1995-1999; 8,1- 8,9 lần trong giai đoạn 2002-2008, giai đoạn 2010-2016 tỷ lệ này tăng lên 9,2-9,8 lần và hơn 10 lần 2018 - 2020(4).
Tác động của tăng trưởng kinh tế đến giảm nghèo không đồng đều giữa các dân tộc. Đồng bào Kinh nhận được lợi ích lớn hơn từ tăng trưởng kinh tế so với các đồng bào dân tộc thiểu số. Năm 2017, tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số chiếm 52,66% trên tổng số hộ nghèo của cả nước và chiếm 27,55% số hộ dân tộc thiểu số. Hơn nữa, tỷ lệ hộ tái nghèo trong những năm gần đây cao. Chẳng hạn, trong 2 năm 2016-2017 tỷ lệ hộ tái nghèo chiến bình quân 5,17% tổng số hộ thoát nghèo, trong đó vùng miền núi Tây Bắc có tỷ lệ tái nghèo lên tới 26,86%, tỷ lệ tái nghèo trong 4 năm 2016-2019 bình quân là 4,09% so với tổng số hộ thoát nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo phát sinh cao, trung bình giai đoạn 2016-2019 là 21,8% so với tổng số hộ thoát nghèo, tập trung chủ yếu ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi. Đầu tư cho giảm nghèo giai đoạn 2011-2015 có sự suy giảm so với giai đoạn trước, 32,982 tỷ so với 43,488 giai đoạn 2006-2010(5).
3. Giải pháp gắn tăng trưởng kinh tế với giảm nghèo trong thời gian tới
Trong 20 năm qua tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã có tác động tích cực đến giảm nghèo. Tăng trưởng kinh tế đi liền với tỷ lệ hộ nghèo giảm, tuy nhiên tốc độ giảm của hộ nghèo giảm dần. Giảm nghèo ở Việt Nam trong những năm qua được đánh giá là chưa bền vững, người nghèo chưa có mục tiêu thoát nghèo, tỷ lệ tái nghèo và tỷ lệ nghèo phát sinh còn cao. Hộ nghèo chiếm tỷ lệ lớn chủ yếu nằm ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Giai đoạn 2020-2030 Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo và An sinh xã hội bền vững theo hướng toàn diện, bao trùm, không ai bị bỏ lại phía sau thì cần phải gắn tăng trưởng kinh tế đi đôi với giảm nghèo. Giải pháp cần phải thực hiện trong thời gian tới là:
Một là, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế để tăng đầu tư cho giảm nghèo. Hiện nay phần lớn hộ nghèo cư trú ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, khó khăn trong tiếp cận cơ sở hạ tầng, giao thông, giáo dục, trợ giúp của Chính phủ và quốc tế. Hơn nữa trình độ dân trí rất thấp, cụ thể hiện vẫn còn 20,8% dân tộc thiểu số tuổi từ 15 trở lên vẫn còn chưa biết đọc, biết viết, con số này cao gấp 4 lần so với trung bình chung cả nước là 5,3%(6). Vì vậy cần thúc đẩy đầu tư cho người nghèo: (1) xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội cho vùng khó khăn, nhất là hạ tầng giao thông để tạo điều kiện cho họ tiếp cận với vùng phát triển; (2) đầu tư cho giáo dục, dạy nghề cho người nghèo để nâng cao trình độ dân trí, trình độ chuyên môn kỹ thuật để họ có cơ hội tìm việc làm, tham gia vào quá trình tăng trưởng và hưởng lợi từ quá trình này; (3) tăng đầu tư của Chính phủ cho chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo để thực hiện chính sách giảm nghèo thường xuyên, hỗ trợ cho người nghèo về y tế, nhà ở, tín dụng.
Hai là, mô hình tăng trưởng kinh tế kết hợp theo chiều rộng và chiều sâu, tăng năng suất lao động để từ đó gia tăng nguồn lực cho mục tiêu giảm nghèo. Hỗ trợ cho người nghèo, vùng nghèo cả vốn, kỹ thuật sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, đây là những điều mà người nghèo thực sự rất cần để tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người nghèo, giúp người nghèo thoát nghèo. Hơn nữa, người nghèo cần phải nâng cao ý thức thoát nghèo, đây đang được đánh giá là nhân tố quan trọng để thực hiện giảm nghèo bền vững.
Ba là, mô hình tăng trưởng kinh tế kết hợp hiệu quả kinh tế với công bằng xã hội. Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập ngày càng tăng thì tỷ lệ người nghèo ngày càng cao và ngược lại. Tức là tăng trưởng kinh tế chủ yếu mang lại lợi ích cho người giàu, đa số người nghèo không hoặc ít nhận được lợi ích từ tăng trưởng. Giảm bất bình đẳng trong thu nhập thì người nghèo sẽ nhận được nhiều từ lợi ích tăng trưởng kinh tế hơn. Chính sách của Chính phủ phải hướng tới giảm chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng, tạo điều kiện thuận lợi, những ưu đãi để thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số./.
____________________
(1) Nghị định của Chính phủ quy định về chuẩn nghèo giai đoạn 2021-2025, số 07/2021/NĐ-CP, ngày 27.1.2021.
(2) Le, Minh S., Nguyen, Tom, Singh, Tarlok, Economic Growth and Poverty in Vietnam: Evidence from Elasticity Approach (Working paper), 2014, Griffith University, Queensland, Australia.
(3) Thu Hăng Pham, Impacts of the sectoral composition of growth on poverty reduction in Vietnam, Journal of Economics and Development, Vol 21 No 2, 2019, Pages 213-222.
(4), (5) (6) Báo cáo phát triển con người 2019 của UNDP, Tổng hợp số liệu từ bảng 1, tr.300, 301, 302 và bảng 6, tr.320, 321.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông số 05.2021
Bài liên quan
- Cán bộ nữ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trước yêu cầu thay đổi: Tâm thế và khả năng thích nghi
- Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện chính sách nhà ở xã hội - Thực trạng và giải pháp
- Giải pháp tăng cường vai trò lãnh đạo của Tỉnh ủy Phú Thọ trong phát triển kinh tế hiện nay
- Thực trạng trải nghiệm định kiến giới của nữ sinh viên Hà Nội và một số khuyến nghị
- Đầu tư cơ sở vật chất tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong giai đoạn hiện nay
Xem nhiều
-
1
Quảng bá di sản văn hóa phi vật thể trên các kênh truyền thông số: Đặc trưng và những yêu cầu đặt ra
-
2
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thông tin về sách giáo khoa trên báo mạng điện tử Việt Nam
-
3
Phát triển lực lượng sản xuất chất lượng mới ở Việt Nam hướng tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa
-
4
Tăng cường nguồn lực tài chính cho chuyển đổi xanh ở Việt Nam
-
5
Diễn ngôn truyền thông về “Vành đai, Con đường”: So sánh giữa Trung Quốc và Đông Nam Á
-
6
Xây dựng đội ngũ tình nguyện viên tại Trung tâm Thông tin khoa học - Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong công tác xử lý tài liệu hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học tại Trường Chính trị tỉnh Lào Cai trong tình hình mới
Nghiên cứu khoa học là một trong hai chức năng cơ bản, gắn bó mật thiết với nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tại các trường chính trị tỉnh, thành phố. Đối với Trường Chính trị tỉnh Lào Cai - trung tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của tỉnh - nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học không chỉ góp phần trực tiếp nâng cao chất lượng giảng dạy, mà còn bổ sung luận cứ khoa học và thực tiễn phục vụ cho công tác lãnh đạo, quản lý, phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Trong bối cảnh Lào Cai sau sáp nhập đang hướng tới phát triển nhanh và bền vững, yêu cầu nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học trở nên cấp thiết, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
Cán bộ nữ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trước yêu cầu thay đổi: Tâm thế và khả năng thích nghi
Cán bộ nữ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trước yêu cầu thay đổi: Tâm thế và khả năng thích nghi
Trong bối cảnh đất nước đang bước vào giai đoạn phát triển mới với nhiều thay đổi mang tính căn bản và toàn diện, hệ thống Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cũng đang triển khai mạnh mẽ quá trình chuyển đổi nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và quản trị tổ chức. Quá trình này diễn ra ở nhiều chiều cạnh: từ cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động, văn hóa làm việc đến yêu cầu về năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ. Trong đó, đội ngũ nữ cán bộ, giảng viên, người lao động của Học viện giữ vai trò đặc biệt quan trọng, không chỉ là lực lượng nòng cốt trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn mà còn là những chủ thể tích cực tham gia kiến tạo môi trường làm việc đổi mới, nhân văn và phát triển bền vững. Trước yêu cầu thay đổi nhanh chóng, việc xây dựng tâm thế chủ động, nâng cao năng lực thích nghi và khả năng cân bằng của nữ cán bộ trở thành yếu tố then chốt, góp phần khẳng định vị thế của phụ nữ Học viện trong tiến trình chuyển đổi, đồng thời tạo nền tảng cho sự phát triển ổn định, lâu dài của đơn vị.
Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện chính sách nhà ở xã hội - Thực trạng và giải pháp
Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện chính sách nhà ở xã hội - Thực trạng và giải pháp
Trong quá trình đô thị hóa nhanh và áp lực dân số gia tăng, Thành phố Hồ Chí Minh đang đối mặt với một bài toán phức tạp: làm sao để đảm bảo chỗ ở phù hợp cho người dân, đặc biệt là các nhóm thu nhập thấp. Trong bối cảnh đó, tổ chức thực hiện chính sách nhà ở xã hội không chỉ là một nhiệm vụ hành chính đơn thuần, mà đã trở thành một sứ mệnh chiến lược, có ảnh hưởng sâu sắc đến mục tiêu phát triển đô thị bền vững, ổn định thị trường bất động sản và nâng cao chất lượng sống toàn diện. Trong khuôn khổ bài viết tập trung làm rõ những phương thức thực hiện cụ thể của chính quyền thành phố trong việc thực hiện mục tiêu này và đưa ra một số kiến nghị để nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách trong thời gian tới.
Giải pháp tăng cường vai trò lãnh đạo của Tỉnh ủy Phú Thọ trong phát triển kinh tế hiện nay
Giải pháp tăng cường vai trò lãnh đạo của Tỉnh ủy Phú Thọ trong phát triển kinh tế hiện nay
Phát triển kinh tế là một trong những nội dung then chốt, đột phá chiến lược luôn được Tỉnh ủy Phú Thọ chú trọng trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo. Trên cơ sở đó, bức tranh kinh tế của tỉnh đã có nhiều khởi sắc đáng kể, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những khó khăn nhất định, đòi hỏi cần có hệ thống giải pháp phù hợp và hiệu quả để kịp thời tháo gỡ, thúc đẩy phát triển bền vững.
Thực trạng trải nghiệm định kiến giới của nữ sinh viên Hà Nội và một số khuyến nghị
Thực trạng trải nghiệm định kiến giới của nữ sinh viên Hà Nội và một số khuyến nghị
Bài viết trình bày kết quả nghiên cứu thực trạng trải nghiệm định kiến giới của nữ sinh viên Hà Nội trên cơ sở kết quả nghiên cứu chọn mẫu với cỡ mẫu là 468 sinh viên thuộc 3 trường Đại học tại Hà Nội (Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Giao thông vận tải, Học viện Báo chí Tuyên truyền). Kết quả nghiên cứu cho thấy, sinh viên nữ vẫn thường xuyên đối mặt với định kiến giới trong các môi trường khác nhau, trong đó, định kiến giới trên môi trường mạng xã hội (MXH) là phổ biến nhất, tiếp đến là môi trường sống, môi trường học đường, truyền thông đại chúng. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc cần phải tiếp tục có giải pháp phù hợp dần xoá bỏ định kiến giới trong các môi trường xã hội, đặc biệt môi trường MXH.
llcttt1994dientu@gmail.com
024.38348033
Bình luận