Thử bàn về quan hệ đối lập trong ngôn ngữ
1. Chúng ta hãy xem xét 3 câu văn sau được lấy từ báo chí:
- Năm nay, ngày 10.10 lại đến (1).
- Chiều ngày 12.6.2002 ở Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh là một chiều nắng đẹp (2).
- Với giới văn nghệ sỹ, Kim Lân là nhà văn cao tuổi nhất trong làng văn (3).
Câu văn (1) khiến người ta phải nghĩ rằng việc ngày 10.10 đến vào năm nay là một điều đặc biệt. Tức là phải có những năm không có ngày 10.10. Và chính do tác giả đối lập năm nay với các năm khác về sự có mặt/ không có mặt của ngày 10.10 mà câu văn trên trở thành sai (chẳng năm nào lại không có ngày 10.10).
Có thể chữa lại như sau:
- Mới đó thôi mà ngày 10.10 đã lại đến rồi.
Trong câu văn (2) Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh được xem như một khoảng không gian độc lập có khả năng hàm chứa hiện tượng thiên nhiên có tính bao trùm rộng lớn là nắng. Nếu nói như vậy, vô hình trung chủ thể phát ngôn đã khẳng định rằng khi ở Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh có nắng thì ở mấy khu phố nằm xung quanh nó và ngang tầm với nó về mặt quy mô có thể có mưa (nói cách khác là Viện bảo tàng Hồ Chí Minh được đặt vào vị thế đối lập với các khu phố này về trạng thái nắng/ không nắng (mưa). Nhưng trong thực tế đây là điều không thể xảy ra.
Nên sửa lại câu này theo các hướng:
- Chiều 12.6.2002, một chiều nắng đẹp, tại Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh đã diễn ra...
- Chiều 12.6.2002, một chiều nắng đẹp, chúng tôi tới Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh...
Còn ở câu văn (3), chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy điều bất ổn: Việc Kim Lân là một trong những nhà văn cao tuổi nhất của Hội Nhà văn Việt Nam là thực tế khách quan, tất cả mọi người đều phải thừa nhận. Vậy tại sao người viết lại cho rằng cái thực tế ấy chỉ dành riêng cho giới văn nghệ sỹ?
Rõ ràng, sự đối lập giới văn nghệ sỹ với những tầng lớp khác trong trường hợp này là không có căn cứ. Nên chữa lại:
- Kim Lân là người cao tuổi nhất trong làng văn.
So sánh 3 câu trên, chúng ta nhận thấy: 1, chúng đều là những câu văn sai; 2, cái sai của chúng đều do tác giả đặt những sự vật, hiện tượng, con người,... nào đó vào quan hệ đối lập trong khi thực tế chúng không hề đối lập với nhau; nói cách khác, đây đều là những câu văn vi phạm quan hệ đối lập.
2. Vậy thế nào là quan hệ đối lập?
Quan hệ đối lập là quan hệ mà theo đó sự hiện diện của yếu tố này là điều kiện cho sự tồn tại của yếu tố kia nằm trong trạng thái hay tính chất trái ngược với nó.
Nói rõ hơn, nếu có yếu tố A thì nhất thiết phải có yếu tố (không A), hoặc ngược lại. Trong ngôn ngữ, quan hệ đối lập được bộc lộ đặc biệt rõ nét. Chẳng có các từ “cao”, “xa”, “nhanh” “đỏ”, v.v. thì cũng phải có các từ tương ứng đối lập với chúng về ý nghĩa là “thấp”, “gần”, “chậm”, “đen”, v.v.
Quan hệ đối lập trong ngôn ngữ có thể được xây dựng theo nhiều phương diện của đối tượng phản ánh, tuỳ thuộc vào từng hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. Có thể kể ra một số phương diện cơ bản sau:
a, Đối lập về tính chất (đẹp - xấu, mới - cũ, sáng - tối...)
b, Đối lập về trạng thái (buồn - vui, khoẻ - yếu, hạnh phúc - đau khổ,...)
c, Đối lập về không gian (xa - gần, thành thị - nông thôn, trong nước - ngoài nước,...)
d, Đối lập về thời gian (trước - sau, nhanh - chậm, xưa - nay,...)
e, Đối lập về số lượng (nhiều - ít, dày - mỏng, lớn - nhỏ,...)
f, Đối lập về quyền sở hữu (của mình - của người, của tôi - của anh,...) v.v.
3. Nếu nắm vững quan hệ đối lập, người viết (hoặc nói) có khả năng tạo ra những sản phẩm ngôn từ vừa ngắn gọn, súc tích, lại vừa sống động, hấp dẫn, giàu sức gợi. Không phải tình cờ trong thơ Đường, việc sử dụng quan hệ đối lập đã trở thành một thủ pháp nghệ thuật không thể thiếu.
Lấy cái hữu hạn để thể hiện cái vô hạn, Lý Bạch viết:
Cánh buồm tít cõi trời xa
Dòng Trường Giang chảy ngang qua bầu trời
hay:
Hai bờ tiếng vượn chưa xong
Thuyền con đã vượt vạn trùng núi non
Lấy cái nhất thời để nói cái vĩnh cửu, bất biến, Thôi Hiệu viết:
Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hai câu thơ sau của Trần Đăng Khoa cũng có thể xem là ví dụ tiêu biểu về sử dụng quan hệ đối lập:
Ngoài thềm rơi cái lá đa
Tiếng nghe rất mỏng như là rơi nghiêng
Không gian ở đây phải trầm lắng, tĩnh mịch tới mức nào thì người ta mới có thể nghe được tiếng động hết sức khẽ khàng, rất khó cảm nhận của một chiếc lá mỏng mảnh rơi nghiêng. Có thể nói, quan hệ đối lập đã giúp nhà thơ dùng cái động để thể hiện cái tĩnh một cách tinh tế và sâu sắc.
Chúng ta hãy tham khảo thêm câu chuyện dưới đây để hiểu rõ hơn giá trị của sự am tường về quan hệ đối lập:
Một vị khách nước ngoài đến thăm Tổng thống Mỹ Abraham Lincon tại dinh thự riêng, bắt gặp ông đang đánh giày cho mình. Vị khách ngạc nhiên hỏi:
- ơ kìa, ngài Tổng thống, thế ra ngài đánh giày cho mình à?
Lincon điềm nhiên đáp:
- Phải, thế ngài đánh giày cho ai?
Chính sự hiểu biết về quan hệ đối lập đã giúp cho Lincon chuyển từ thế bị động sang thế chủ động và giành chiến thắng trong cuộc đấu khẩu nhẹ nhàng nhưng đầy thâm thuý này. Trong phát ngôn của vị khách, trọng tâm thông tin dồn vào hai chữ “cho mình”. Lincon đã tận dụng điều này để xây dựng quan hệ đối lập: nếu có “cho mình” thì lẽ đương nhiên phải có “cho người khác”. Và một khi hành động “đánh giày cho mình” làm cho vị khách ngạc nhiên thì chắc hẳn hành động “đánh giày cho người khác” đối với ông ta sẽ là chuyện bình thường. Xuất phát từ kiểu lập luận hóm hỉnh đó, Lincon đã có một phản ứng vừa nhanh nhạy vừa sắc sảo, hàm ý: “Tôi đánh giày cho tôi còn hơn là ông phải phục vụ người khác”.
4. Ngược lại, nếu không nhận thức rõ về quan hệ đối lập, chúng ta có thể tạo ra những phát ngôn mắc phải những hạn chế nhất định (chủ yếu là về nội dung vì quan hệ đối lập thuộc phạm vi ngữ nghĩa). Thường gặp hơn cả là những hạn chế sau:
a, Dư thừa thông tin, ví dụ:
- Năm nay, tháng sáu lại về.
Câu này cũng tương tự như 3 câu đã nêu ở phần đầu bài viết này. Nó thừa cụm từ "năm nay", vì tháng sáu năm nào cũng có.
b, Thiếu hụt thông tin (thường chỉ gặp ở những người nước ngoài chưa thành thạo tiếng Việt), ví dụ:
- Nó đá bóng bằng chân;
- Anh ta nhìn tôi bằng mắt;...
Hai câu văn này khiến người ta phải suy luận rằng: có những người đá bóng không phải bằng chân và có những người nhìn không phải bằng mắt. Nhưng đó là những điều không đúng với thực tế: “đá” đương nhiên phải “bằng chân” và “nhìn” tất yếu phải “bằng mắt”. Do vậy, để những câu văn trên trở thành đúng, ta cần đưa thêm vào đó những thành tố ngôn ngữ (mang những thông tin mới) có khả năng tạo dựng quan hệ đối lập phù hợp với hiện thực. Chẳng hạn: Nó đá bóng bằng chân trái (đối lập với những người khác đá bóng bằng chân phải); Anh ta nhìn tôi bằng cặp mắt nghi ngờ (đối lập với những người khác không có cái nhìn như vậy đối với tôi).
c, Không làm nổi rõ trọng tâm thông tin, ví dụ:
- Công dân, tổ chức có quyền phổ biến tác phẩm dưới hình thức xuất bản phẩm thông qua nhà xuất bản. (Điều 5, Luật Xuất bản cũ).
Theo quan hệ đối lập thì “có quyền phổ biến tác phẩm” cũng tức là “có quyền không phổ biến tác phẩm” và “có quyền phổ biến tác phẩm [...] thông qua nhà xuất bản “cũng có nghĩa là” có quyền phổ biến tác phẩm không thông qua nhà xuất bản”. Đây là một kẽ hở có thể bị kẻ xấu lợi dụng và gây hậu quả nghiêm trọng. Vì thế, để điều luật này chặt chẽ, nên cho thêm cụm từ “nhưng phải” vào trước từ ‘thông qua”.
Tương tự, trong câu chuyện về Lincon kể trên, giá như vị khách nắm vững quan hệ đối lập trong ngôn ngữ, chắc hẳn ông ta đã đưa thêm cụm từ “phải tự” vào vị trí trước cụm từ “đánh giày”: “ơ kìa, ngài Tổng thống, thế ra ngài phải tự đánh giày cho mình à?”. Lúc này, phát ngôn của ông ta sẽ trở nên chặt chẽ, với trọng tâm thông tin dồn vào hai chữ "phải tự" và Lincon sẽ không có cơ sở để bắt bẻ.
Thực tế khảo sát cho thấy: Trong các câu dư thừa thông tin, lỗi sai thường nằm ở thành phần trạng ngữ chỉ không gian, thời gian, đối tượng liên hệ; trong các câu thiếu hụt thông tin, lỗi sai thường nằm ở thành phần trạng ngữ chỉ phương tiện, cách thức; còn trong các câu không làm nổi rõ trọng tâm thông tin, lỗi sai thường do thiếu những từ, ngữ có chức năng nhấn mạnh nhằm định hướng cho người đọc cách hiểu đúng với ý tác giả.
5. Các nhà báo - những người sử dụng ngòi bút để tác động tới mọi tầng lớp công chúng, và qua đó, định hướng dư luận xã hội - hơn ai hết cần lưu tâm tới quan hệ đối lập. Nếu nhà báo viết những câu văn tương tự như 3 câu chúng ta đã phân tích ở phần đầu, độc giả rất dễ có cảm giác là tư duy của anh ta có vấn đề (mà với tư duy như vậy thì liệu nhà báo có thể hoàn thành được sứ mệnh cao cả nhưng cũng đầy gian khó của mình?). Còn nếu nhà báo viết những câu văn thiếu chặt chẽ, không làm nổi rõ trọng tâm thông tin, anh ta có thể phải gánh chịu hậu quả còn nặng nề hơn trong trường hợp chúng gợi ra những suy luận bất lợi (dựa vào việc vận dụng quan hệ đối lập, đương nhiên) cho chủ thể phát ngôn, cho đối tượng phản ánh hay thậm chí cho cả một cộng đồng./.
_________________________
Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền số 3 (tháng 5+6).2005
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Nguyễn Đức Dân (1998), Lôgich và tiếng Việt, Nxb. Giáo dục.
2. Nguyễn Tri Niên (2003), Ngôn ngữ báo chí, Nxb. Đồng Nai.
3. Bùi Minh Toán - Lê A - Đỗ Việt Hùng (1996), Tiếng Việt thực hành, Nxb. Giáo dục.
4. Gillian Brown - George Yule, Phân tích diễn ngôn (Trần Thuần dịch) (2001), Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội.
TS Hoàng Anh
Bài liên quan
- Cán bộ nữ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trước yêu cầu thay đổi: Tâm thế và khả năng thích nghi
- Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện chính sách nhà ở xã hội - Thực trạng và giải pháp
- Giải pháp tăng cường vai trò lãnh đạo của Tỉnh ủy Phú Thọ trong phát triển kinh tế hiện nay
- Thực trạng trải nghiệm định kiến giới của nữ sinh viên Hà Nội và một số khuyến nghị
- Đầu tư cơ sở vật chất tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong giai đoạn hiện nay
Xem nhiều
-
1
Quảng bá di sản văn hóa phi vật thể trên các kênh truyền thông số: Đặc trưng và những yêu cầu đặt ra
-
2
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thông tin về sách giáo khoa trên báo mạng điện tử Việt Nam
-
3
Phát triển lực lượng sản xuất chất lượng mới ở Việt Nam hướng tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa
-
4
Tăng cường nguồn lực tài chính cho chuyển đổi xanh ở Việt Nam
-
5
Diễn ngôn truyền thông về “Vành đai, Con đường”: So sánh giữa Trung Quốc và Đông Nam Á
-
6
Xây dựng đội ngũ tình nguyện viên tại Trung tâm Thông tin khoa học - Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong công tác xử lý tài liệu hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Trẻ tự kỷ trên báo chí: Từ hình ảnh “nạn nhân” đến người hùng - Một nghiên cứu phân tích khung truyền thông
Trong những năm gần đây, tại Việt Nam, hình ảnh trẻ tự kỷ xuất hiện thường xuyên trên báo chí. Không chỉ được khắc họa dưới góc nhìn “nạn nhân” - những cá nhân thiệt thòi, yếu thế, cần sự bảo vệ, trẻ tự kỷ còn được truyền thông ở hình ảnh “người hùng” - những cá nhân giàu nghị lực, tài năng, trở thành nguồn cảm hứng cho cộng đồng. Bài nghiên cứu này vận dụng phương pháp phân tích khung truyền thông (framing analysis) để làm rõ thực trạng truyền thông về hình ảnh trẻ tự kỷ trên báo chí Việt Nam, từ đó, đánh giá tác động đối với nhận thức xã hội, hành vi cộng đồng và chính sách hỗ trợ trẻ tự kỷ ở nước ta hiện nay.
Cán bộ nữ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trước yêu cầu thay đổi: Tâm thế và khả năng thích nghi
Cán bộ nữ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trước yêu cầu thay đổi: Tâm thế và khả năng thích nghi
Trong bối cảnh đất nước đang bước vào giai đoạn phát triển mới với nhiều thay đổi mang tính căn bản và toàn diện, hệ thống Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cũng đang triển khai mạnh mẽ quá trình chuyển đổi nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và quản trị tổ chức. Quá trình này diễn ra ở nhiều chiều cạnh: từ cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động, văn hóa làm việc đến yêu cầu về năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ. Trong đó, đội ngũ nữ cán bộ, giảng viên, người lao động của Học viện giữ vai trò đặc biệt quan trọng, không chỉ là lực lượng nòng cốt trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn mà còn là những chủ thể tích cực tham gia kiến tạo môi trường làm việc đổi mới, nhân văn và phát triển bền vững. Trước yêu cầu thay đổi nhanh chóng, việc xây dựng tâm thế chủ động, nâng cao năng lực thích nghi và khả năng cân bằng của nữ cán bộ trở thành yếu tố then chốt, góp phần khẳng định vị thế của phụ nữ Học viện trong tiến trình chuyển đổi, đồng thời tạo nền tảng cho sự phát triển ổn định, lâu dài của đơn vị.
Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện chính sách nhà ở xã hội - Thực trạng và giải pháp
Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện chính sách nhà ở xã hội - Thực trạng và giải pháp
Trong quá trình đô thị hóa nhanh và áp lực dân số gia tăng, Thành phố Hồ Chí Minh đang đối mặt với một bài toán phức tạp: làm sao để đảm bảo chỗ ở phù hợp cho người dân, đặc biệt là các nhóm thu nhập thấp. Trong bối cảnh đó, tổ chức thực hiện chính sách nhà ở xã hội không chỉ là một nhiệm vụ hành chính đơn thuần, mà đã trở thành một sứ mệnh chiến lược, có ảnh hưởng sâu sắc đến mục tiêu phát triển đô thị bền vững, ổn định thị trường bất động sản và nâng cao chất lượng sống toàn diện. Trong khuôn khổ bài viết tập trung làm rõ những phương thức thực hiện cụ thể của chính quyền thành phố trong việc thực hiện mục tiêu này và đưa ra một số kiến nghị để nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách trong thời gian tới.
Giải pháp tăng cường vai trò lãnh đạo của Tỉnh ủy Phú Thọ trong phát triển kinh tế hiện nay
Giải pháp tăng cường vai trò lãnh đạo của Tỉnh ủy Phú Thọ trong phát triển kinh tế hiện nay
Phát triển kinh tế là một trong những nội dung then chốt, đột phá chiến lược luôn được Tỉnh ủy Phú Thọ chú trọng trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo. Trên cơ sở đó, bức tranh kinh tế của tỉnh đã có nhiều khởi sắc đáng kể, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những khó khăn nhất định, đòi hỏi cần có hệ thống giải pháp phù hợp và hiệu quả để kịp thời tháo gỡ, thúc đẩy phát triển bền vững.
Thực trạng trải nghiệm định kiến giới của nữ sinh viên Hà Nội và một số khuyến nghị
Thực trạng trải nghiệm định kiến giới của nữ sinh viên Hà Nội và một số khuyến nghị
Bài viết trình bày kết quả nghiên cứu thực trạng trải nghiệm định kiến giới của nữ sinh viên Hà Nội trên cơ sở kết quả nghiên cứu chọn mẫu với cỡ mẫu là 468 sinh viên thuộc 3 trường Đại học tại Hà Nội (Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Giao thông vận tải, Học viện Báo chí Tuyên truyền). Kết quả nghiên cứu cho thấy, sinh viên nữ vẫn thường xuyên đối mặt với định kiến giới trong các môi trường khác nhau, trong đó, định kiến giới trên môi trường mạng xã hội (MXH) là phổ biến nhất, tiếp đến là môi trường sống, môi trường học đường, truyền thông đại chúng. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc cần phải tiếp tục có giải pháp phù hợp dần xoá bỏ định kiến giới trong các môi trường xã hội, đặc biệt môi trường MXH.
llcttt1994dientu@gmail.com
024.38348033
Bình luận