Tư duy chính xác, mạch lạc thì cách diễn đạt sẽ trong sáng, dễ hiểu
Ta biết rằng: “từ là vỏ vật chất của khái niệm”. Nói một cách nôm na thì mỗi từ đều là tên gọi của một vật nào đó hoặc một sự việc nào đó. Còn “câu là vỏ vật chất của tư duy”. Nghĩa là khi con người suy nghĩ, muốn truyền một ý tưởng nào đó đến với người khác thì phải diễn đạt nó bằng câu. Như vậy muốn biểu thị một khái niệm chính xác thì phải dùng một từ chính xác để không nhầm lẫn giữa vật này với vật khác, muốn truyền một ý tưởng nào đó thì phải diễn đạt sao cho đúng với ý nghĩ của mình để người nghe (hoặc người đọc) không nhầm, không hiểu sai. Nói nôm na như sau: Những ý nghĩ trong đầu mình không ai biết thì thuộc phạm trù tư duy, đem diễn đạt những ý nghĩ ấy truyền cho người khác thì thuộc phạm trù ngôn ngữ, vì phải dùng ngôn ngữ mới diễn đạt được.
Báo chí là một phương tiện truyền ý nghĩ, tư tưởng, tình cảm của người này đến với người khác. Điều này yêu cầu người viết, người nói (tức nhà báo, kể cả phóng viên và biên tập viên) phải diễn đạt cho chính xác, truyền đúng ý nghĩ của mình đến với độc giả hay thính giả. Đây là yêu cầu tối thiểu và cũng là tối đa. Xét về mặt diễn đạt thì thấy trên các báo nhiều “hạt sạn” hay nhiều “cỏ”, nghĩa là còn có hiện tượng dùng từ sai, đặt câu thiếu trong sáng, mạch lạc, thậm chí có hiện tượng nói một đằng phải hiểu một nẻo. Nếu thống kê hiện tượng này trên các báo thì nhiều vô kể. Một số tờ báo đã tăng thêm trang sửa lỗi trên các báo nhưng cũng không sửa hết.
Nhiều người cho rằng hiện tượng đó chỉ thể hiện kỹ năng, trình độ của người viết hay người nói. Thực chất vấn đề không hoàn toàn đúng như vậy. Vấn đề diễn đạt còn thể hiện tình trạng tư duy. Khả năng diễn đạt thường gắn với khả năng tư duy. Điều này thể hiện rất rõ ở những người làm công tác chuyên ngành. Ai làm ở ngành nào, hiểu về ngành nào thì diễn đạt về ngành ấy tốt hơn những người không làm trong ngành. Có người mắc bệnh thần kinh thì không còn khả năng diễn đạt. Một số người cao tuổi, thể lực suy giảm, trí lực cũng giảm theo thì khả năng diễn đạt cũng kém đi.
Đối với những người làm công tác viết lách, nói năng thì việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt thường gắn với rèn luyện cả nếp suy nghĩ (tư duy). Suy nghĩ thiếu mạch lạc, rõ ràng thì diễn đạt cũng không thể nào trong sáng được. Khi rèn luyện kỹ năng diễn đạt cũng chính là rèn luyện cách thể hiện sự suy nghĩ sao cho rành mạch, rõ ràng. Đặc điểm của ngôn ngữ (nói hay viết) là bao giờ cũng diễn ra một cách thứ tự trước sau, không bao giờ chồng chéo lên nhau (không ai có thể phát âm liền một lúc hai từ). Thể hiện dòng suy nghĩ cũng vậy, phải có ý trước, ý sau, sắp xếp dòng suy nghĩ này thành văn tự hay lời nói (tức là diễn đạt) phải làm sao truyền đến cho người đọc hay người nghe đúng với ý mình định nói (hay viết). Nếu diễn đạt lộn xộn, tuỳ tiện, cẩu thả thì khó truyền đạt được đúng ý mình định nói (hay viết) hoặc làm cho người nghe (hay đọc) khó chịu.
Rất tiếc, trong đội ngũ nhà báo hiện nay có người nói (hay viết) mà lại không hiểu chính bản thân mình định nói gì. Điều này dễ nhận thấy khi nhà báo dùng từ sai. Có lần tôi nghe Đài truyền hình Việt Nam dùng hai từ là “vấn nạn” và “bất cập”, tôi liền gọi điện hỏi ngay người phụ trách chương trình vừa phát sóng về ý nghĩa của hai từ đó thì chính người này cũng không biết nghĩa hai từ đó là gì. Nghe thật hài hước nhưng lại là chuyện có thật 100%. Đây là hiện tượng nói mà không nghĩ. Mình nói mà còn không hiểu mình định nói gì thì làm sao truyền đạt cho người khác?
Trong phạm trù ngôn ngữ thì “từ” là vấn đề đơn giản (nói một cách tương đối), vậy mà nhà báo là những người sử dụng ngôn ngữ làm công cụ chính còn dùng sai từ thì khi đặt câu, nhất là những câu phức hợp còn sai đến đâu. Tiếng Việt có khả năng diễn đạt đầy đủ và chính xác mọi ý tưởng phức tạp trong bất kỳ lĩnh vực nào, cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Nhưng nếu không rèn luyện cách diễn đạt thì khó có thể trình bày mọi vấn đề một cách khúc chiết, mạch lạc. Có khi cùng một vấn đề, cùng một nội dung, nhưng có người diễn đạt thì rõ ràng, hấp dẫn nhưng có người diễn đạt lại rối rắm, tẻ nhạt. Đó là do khả năng diễn đạt hay khả năng sử dụng ngôn ngữ của từng người, cũng có thể nói là do cách tư duy của từng người (rồi sắp xếp dòng tư duy ấy thành ngôn ngữ).
Mối quan hệ giữa diễn đạt và tư duy là vấn đề trừu tượng và rất phức tạp, vì cái nọ biểu hiện cái kia, gắn bó với nhau rất mật thiết. Người ta chỉ có thể tư duy trên cơ sở ngôn ngữ, hay nhờ có ngôn ngữ mới có thể tư duy. Người ta chỉ có thể nhận biết tư duy (ý nghĩ) của người khác qua ngôn ngữ (cách diễn đạt) của họ. Như vậy cũng có nghĩa muốn biểu thị đúng ý nghĩ của mình thì phải rèn luyện cách diễn đạt, dùng từ cho chính xác, đặt câu cho chuẩn. Rèn luyện cách diễn đạt cũng chính là rèn luyện tư duy.
Sau đây chúng tôi xin nêu một vài dẫn chứng về dùng từ sai dẫn đến ý nghĩa sai:
- “Vân Dung tình cờ làm quen với chồng cô trong một lần tới xưởng sản xuất quần bò của anh... và tình nguyện làm dâu chàng trai buôn bán quần bò...” (Trang 13 báo An ninh thế giới cuối tháng số 31, tháng 2.2004).
“Làm dâu chàng trai buôn bán quần bò” tức là lấy con trai anh ta. Còn lấy anh ta thì là “làm vợ” chứ. Muốn diễn đạt ý “làm vợ” mà dùng từ sai để người đọc hiểu là “làm dâu”.
- “Hội chứng khó đọc ở con người, thiên tài hay bệnh lý” là tít của bài báo ở trang 10 tuần báo Khuyến học & dân trí số 7 (ra ngày 12.2.2004)
“Khó đọc” là một biểu hiện của tình trạng thiểu năng trí tuệ thì đâu phải là “thiên tài” mà là “thiên tật” tức tật bẩm sinh.
Nhưng có một trường hợp theo chúng tôi là sai điển hình trong việc dùng từ, là câu của hai tiến sĩ đăng trên báo Tiền phong: “Nên chăng kéo dài tuổi nghỉ hưu cho cán bộ khoa học?”.
Chúng tôi đã trao đổi với biên tập viên báo Tiền phong về trường hợp này nhưng biên tập viên quý báo vẫn khẳng định viết như thế là đúng. Chỉ có thể kéo dài tuổi công tác chứ làm sao kéo dài tuổi nghỉ hưu được. Hôm nay “nghỉ hưu” thì mai chết do một nguyên nhân nào đó. Vậy thì trách nhiệm kéo dài “tuổi nghỉ hưu” là trách nhiệm của ngành y tế. Trong trường hợp trên thì phải viết: “Nên chăng kéo dài tuổi công tác cho cán bộ khoa học”. Hoặc muốn dùng từ “nghỉ hưu” thì phải viết: “Nên chăng lùi tuổi nghỉ hưu cho cán bộ khoa học”. Cũng có thể viết: “Nên chăng để độ tuổi nghỉ hưu trên 60 cho những cán bộ khoa học”.
Rõ ràng là có sự nhầm lẫn về khái niệm (trong tư duy) nên mới dẫn đến tình trạng dùng từ sai.
Trường hợp đặt câu sai (diễn đạt thiếu trong sáng) thì còn rất nhiều. Xin nêu thí dụ sau:
- “Có nên phát động một cuộc vận động trở về dân tộc không, mà trước hết là nói ngọng...” (Trang 23, tạp chí Nhà báo thủ đô số ra tháng 8.2004).
Viết như trên thì người đọc sẽ hiểu như sau: “nói ngọng” là trở về với dân tộc, dân tộc ta vốn dĩ nói ngọng.
Có lẽ ý tác giả muốn viết: “Có nên phát động một cuộc giữ gìn nét đẹp ngôn ngữ của dân tộc không, mà trước hết là khắc phục tật nói ngọng...”
- “Hai ngày sau khi nhậm chức, Tân hoa xã chỉ trích Nixon...”(Cột 3 trang 7 báo Nhân đạo và đời sống số 10 ra từ ngày 1 - 7.3.2004).
Đặt câu như trên thì có nghĩa là Tân hoa xã nhậm chức. Nhưng thực ra thì Nixon nhậm chức.
Có lẽ ý tác giả muốn viết: “Hai ngày sau khi nhậm chức, Nixon đã bị Tân hoa xã chỉ trích”.
- “Mọc sừng” - khẩu ngữ dành cho những đức “lang quân” có quan hệ tình cảm như vợ chồng với người thứ ba.” (cột 2 trang 37 tạp chí Gia đình hạnh phúc lứa đôi số 35/2003 ra ngày 27.10 - 10.11).
Câu trên diễn đạt không thoát ý, “đức lang quân có quan hệ tình cảm như vợ chồng với người thứ ba” hay vợ “đức lang quân” có quan hệ tình cảm...?
Nên viết là: “Mọc sừng” - khẩu ngữ dành cho những ông chồng có vợ đi quan hệ như vợ chồng với người đàn ông khác”.
Dòng tư duy lộn xộn, thiếu lôgíc nên đã dẫn đến tình trạng diễn đạt thiếu trong sáng ở trên.
Không rèn luyện cách diễn đạt bằng cách viết thường xuyên thì cùn bút. Không vận dụng tư duy thường xuyên thì khả năng tư duy teo đi. Có thể nói tóm tắt bài viết này như sau: nếu diễn đạt ý tuỳ tiện, thiếu chính xác, lộn xộn lâu ngày thành thói quen thì nếp tư duy bị thoái hoá, tức là không còn khả năng diễn đạt trong sáng, mạch lạc được nữa. Có thể rèn luyện cách diễn đạt bằng cách tự mình sửa văn cho mình và tập sửa văn cho người khác, bên cạnh đó cần bổ sung thường xuyên vốn từ ngữ để không thiếu từ khi diễn đạt. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng diễn đạt luẩn quẩn, tối nghĩa, lúng túng. Trong đó có hai nguyên nhân sau: thứ nhất là do thiếu vốn từ và nguyên nhân tiếp theo là do căn bệnh cẩu thả, tuỳ tiện hoặc có khi là cầu kỳ. Tập cách tư duy trong sáng, mạch lạc thì thể hiện ra cách diễn đạt cũng trong sáng, mạch lạc, dễ hiểu.
___________________________
Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền số 1 (tháng 1+2)/2005
Trần Dĩ Hạ
Bài liên quan
- Đặc điểm hành vi tiêu thụ tin tức trên mạng xã hội của thế hệ Z tại Việt Nam
- Xây dựng đội ngũ nữ trí thức thành phố Hải Phòng trong kỷ nguyên mới
- Truyền thông về sản phẩm OCOP trên báo mạng điện tử địa phương vùng Trung du Bắc Bộ
- Quản lý thông tin phát ngôn của các cơ quan hành chính nhà nước Thành phố Hà Nội trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
- Short video trong xây dựng thương hiệu YouTube của cơ quan báo chí hiện nay: Vai trò, vấn đề đặt ra và một số giải pháp
Xem nhiều
-
1
Thực hành tiết kiệm
-
2
Video Đại hội đại biểu Đảng bộ Học viện Báo chí và Tuyên truyền lần thứ XII, nhiệm kỳ 2025-2030
-
3
Sự dịch chuyển của thương hiệu Việt trong ngành thực phẩm và đồ uống (F&B) Việt Nam
-
4
Tổ chức thành công đại hội các cấp của Đảng bộ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: đoàn kết, dân chủ, gương mẫu, trí tuệ, hiệu quả
-
5
Giải pháp thúc đẩy tác động của ứng dụng yếu tố văn hoá trong chương trình âm nhạc đối với hành vi tiếp nhận nội dung của giới trẻ Việt Nam trên các phương tiện truyền thông
-
6
Truyền thông về Môi trường - Xã hội và Quản trị (ESG) của các tập đoàn lớn tại Việt Nam hiện nay: Cơ hội và thách thức
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Giữ gìn cốt cách của báo chí cách mạng Việt Nam
Chất “cách mạng” chính là phẩm chất cốt lõi của báo chí cách mạng Việt Nam, để phân biệt với các nền báo chí khác. Tuy nhiên, hiện nay, với những tác động mặt trái của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, của quá trình hội nhập khiến độc giả nhận thấy có những cơ quan báo chí không thể hiện được phẩm chất cách mạng trong các tác phẩm báo chí của mình. Việc giữ gìn phẩm chất cách mạng là một yêu cầu tất yếu vì sự tồn tại và phát triển bền vững của báo chí cách mạng Việt Nam.
Đặc điểm hành vi tiêu thụ tin tức trên mạng xã hội của thế hệ Z tại Việt Nam
Đặc điểm hành vi tiêu thụ tin tức trên mạng xã hội của thế hệ Z tại Việt Nam
Trong bối cảnh mạng xã hội ngày càng trở thành kênh tiếp cận thông tin phổ biến, nghiên cứu này tập trung phân tích hành vi tiêu thụ tin tức của thế hệ Z tại Việt Nam. Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ một cuộc khảo sát do tác giả thực hiện vào tháng 8/2024, trong khuôn khổ thực hiện luận án Tiến sĩ với đề tài “Nghiên cứu hành vi tiêu thụ tin tức trên mạng xã hội của thế hệ Z tại Việt Nam”. Khảo sát được tiến hành với 1.224 thanh thiếu niên trong độ tuổi từ 15 đến 21. Kết quả cho thấy, 97,2% người tham gia lựa chọn mạng xã hội là nguồn tin tức chính. Trong đó, các nền tảng được sử dụng phổ biến nhất gồm Facebook, TikTok và YouTube. Các chủ đề tin tức thu hút sự quan tâm nhiều nhất là giải trí, xã hội và kinh tế. Hơn 68% người được hỏi tích cực tham gia các hành vi tiêu thụ tin tức trên mạng xã hội như đọc, chia sẻ và thảo luận; khoảng 61% chủ động kiểm tra nguồn tin khi tiêu thụ. Đáng chú ý, 80% số người tham gia nhận thức được rằng mạng xã hội sử dụng thuật toán để cá nhân hóa nội dung, nhưng phần lớn (68,9%) có đánh giá tiêu cực, đặc biệt là lo ngại về quyền riêng tư và thiên lệch nội dung dẫn đến nguy cơ tạo thành "bong bóng thông tin". Nghiên cứu cũng cho thấy mức độ nhận thức và hành vi tiêu thụ tin tức có xu hướng tăng dần theo độ tuổi. Các kết quả đã gợi mở về nhu cầu giáo dục kiến thức truyền thông số cho nhóm công chúng này và đặt ra vấn đề về trách nhiệm của nền tảng trong điều chỉnh thuật toán nhằm tạo môi trường truyền thông tin tức hiệu quả và bền vững.
Xây dựng đội ngũ nữ trí thức thành phố Hải Phòng trong kỷ nguyên mới
Xây dựng đội ngũ nữ trí thức thành phố Hải Phòng trong kỷ nguyên mới
Nghiên cứu khái quát thực trạng đội ngũ nữ trí thức thành phố Hải Phòng giai đoạn 2008–2025, làm rõ những thành tựu nổi bật, đồng thời chỉ ra những tồn tại, hạn chế, trên cơ sở đó, đề xuất một hệ thống giải pháp đồng bộ nhằm xây dựng đội ngũ nữ trí thức Hải Phòng trong thời kỳ chuyển đổi số, hội nhập sâu rộng và phát triển kinh tế tri thức, đóng góp thiết thực vào việc nâng cao nguồn lực con người, phát huy vai trò của phụ nữ Hải Phòng trong kỷ nguyên mới 2025–2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Truyền thông về sản phẩm OCOP trên báo mạng điện tử địa phương vùng Trung du Bắc Bộ
Truyền thông về sản phẩm OCOP trên báo mạng điện tử địa phương vùng Trung du Bắc Bộ
Trong những năm gần đây, chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) đã trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn theo hướng bền vững, gắn với phát huy giá trị bản địa và nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm nông nghiệp. Trong quá trình đó, báo chí -truyền thông đặc biệt là báo mạng điện tử địa phương đóng vai trò quan trọng trong việc quảng bá hình ảnh, khơi dậy niềm tin người tiêu dùng, đồng thời kết nối sản phẩm OCOP với thị trường. Tại các tỉnh vùng Trung du Bắc Bộ - nơi có tiềm năng phong phú về đặc sản nông nghiệp, thủ công mỹ nghệ, hệ thống báo mạng địa phương đã có nhiều nỗ lực đưa thông tin về sản phẩm OCOP đến với công chúng. Tuy nhiên, hoạt động truyền thông này vẫn còn phân tán, thiếu chiều sâu và chưa khai thác hiệu quả các thế mạnh của báo điện tử trong tích hợp đa phương tiện, tương tác hai chiều. Bài viết phân tích thực trạng truyền thông về sản phẩm OCOP trên báo mạng điện tử địa phương các tỉnh vùng Trung du Bắc Bộ, chỉ ra những mặt đạt được, những hạn chế còn tồn tại và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng truyền thông, góp phần đưa sản phẩm OCOP thực sự trở thành thương hiệu nông thôn mới.
Quản lý thông tin phát ngôn của các cơ quan hành chính nhà nước Thành phố Hà Nội trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
Quản lý thông tin phát ngôn của các cơ quan hành chính nhà nước Thành phố Hà Nội trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh truyền thông số phát triển mạnh mẽ và nhu cầu tiếp cận thông tin của người dân ngày càng cao, việc quản lý thông tin phát ngôn của các cơ quan hành chính nhà nước (HCNN) trở thành một nhiệm vụ cấp thiết nhằm bảo đảm tính chính xác, kịp thời và định hướng dư luận xã hội hiệu quả. Tại Thủ đô Hà Nội - trung tâm chính trị, hành chính của cả nước, hoạt động phát ngôn diễn ra với mật độ cao, liên quan đến nhiều lĩnh vực nhạy cảm và được báo chí, đặc biệt là báo mạng điện tử (BMĐT), cập nhật liên tục. Trên thực tế, các BMĐT đang giữ vai trò cầu nối quan trọng giữa cơ quan công quyền và công chúng trong truyền thông chính sách, nhưng cũng đối mặt với không ít thách thức: từ áp lực thời gian, tính xác thực của nguồn tin, đến yêu cầu về cách thể hiện thông tin thân thiện, dễ hiểu. Bài viết này tập trung phân tích thực trạng quản lý thông tin phát ngôn của các cơ quan HCNN thành phố Hà Nội trên BMĐT hiện nay, chỉ ra những kết quả đạt được, hạn chế còn tồn tại, đồng thời đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản trị thông tin trong thời đại số, nhằm hướng tới nền hành chính minh bạch, hiện đại và phục vụ.
Bình luận