Vận dụng kinh nghiệm đối ngoại công an nhân dân giai đoạn 1945-1975, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới
1. Công tác đối ngoại Công an nhân dân góp phần thực hiện nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn 1945-1975
Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời (ngày 02/9/1945) đã phải đối mặt với tình thế vô cùng khó khăn. Đất nước phải đối phó với thù trong, giặc ngoài; đồng thời, chưa có một quốc gia nào công nhận nền độc lập và xác lập mối quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Lúc này, cuộc kháng chiến cứu nước của ba dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia có chung một kẻ thù là thực dân Pháp, ba nước Đông Dương trở thành một chiến trường chung. Do vậy, trong giai đoạn đầu triển khai công tác đối ngoại, lực lượng Công an (LLCA) nhân dân chỉ có mối quan hệ với Công an Lào và Campuchia.
Đáp lại mong muốn và quyết tâm “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”(1) của Việt Nam, từ năm 1950, Chính phủ các nước Trung Quốc, Liên Xô, Triều Tiên, Tiệp Khắc, Cộng hòa Dân chủ Đức, Hungary, Rumany, Ba Lan, Bungary... đã đặt quan hệ ngoại giao với Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa và đã được quốc tế công nhận là một quốc gia có chủ quyền. Từ đây, cùng với các lực lượng, LLCA nhân dân tiến hành công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế với công an các nước XHCN. Trong đó, phải kể đến mối quan hệ, hợp tác với Công an Trung Quốc.
Được sự đồng ý của Trung ương Đảng, Nha Công an Trung ương đã đề nghị Công an Trung Quốc hỗ trợ Công an Việt Nam tập trung xây dựng lực lượng trên nhiều lĩnh vực; trong đó, đặc biệt chú ý đến công tác xây dựng lực lượng cảnh vệ. Khi đó, Công an Trung Quốc đã cử chuyên gia sang hỗ trợ trực tiếp với Ban lãnh đạo Trường Công an Trung ương biên soạn giáo trình giảng dạy các môn nghiệp vụ cơ bản trong công tác công an và trực tiếp giảng dạy một số chuyên đề nghiệp vụ công an cho các học viên của Trường.
Công an tỉnh Cao Bằng phối hợp với Công an tỉnh Quảng Tây - Trung Quốc tiễu phỉ ở khu vực biên giới, hai bên đã thực hiện thắng lợi chiến dịch tiễu phỉ; đồng thời, Công an tỉnh Cao Bằng đã cử nhiều đoàn sang trao đổi công tác chuyên môn với Công an tỉnh Quảng Tây. Như vậy, trong quan hệ đối ngoại, hợp tác với công an Trung Quốc trong thời gian này, một mặt phối hợp với nước bạn một cách có hiệu quả trong chiến dịch tiễu phỉ, mặt khác học tập kinh nghiệm nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ, chiến sĩ, góp phần bảo vệ an ninh khu vực Đông Bắc của Tổ quốc.
Để từng bước củng cố, LLCA nhân dân đã tận dụng mọi điều kiện, tranh thủ sự giúp đỡ của LLCA các nước XHCN trên các mặt đào tạo cán bộ, xây dựng cơ sở vật chất và cung cấp các phương tiện, kỹ thuật nghiệp vụ cho LLCA nhân dân.
Khi phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa đi dự Hội nghị Giơnevơ, các đồng chí được cử đi bảo vệ đoàn đã chủ động liên hệ với Bộ An ninh Cộng hòa Dân chủ Đức hỗ trợ một số phương tiện kỹ thuật như máy dò kim loại và máy dò tín hiệu tiếng ồn... Các phương tiện nghiệp vụ đó đã hỗ trợ đắc lực cho LLCA bảo vệ an toàn cho các thành viên, bảo vệ nơi ở và làm việc của phái đoàn, bảo vệ bí mật tài liệu và chủ trương đàm phán, chống địch thâm nhập thu thập tin tức, nghe trộm bằng các phương tiện kỹ thuật. Đồng thời, ta còn liên hệ với an ninh Liên Xô giúp đỡ kiểm tra kỹ thuật, kịp thời phát hiện và tháo gỡ máy nghe trộm được đối phương đặt trong điện thoại tại phòng ở của phái đoàn ta(2).
Trong những năm đầu triển khai công tác đối ngoại, LLCA nhân dân đã phá được thế bao vây, cô lập của kẻ thù, góp phần khai thông tuyến biên giới Việt - Trung, bảo đảm an toàn cho việc nhận viện trợ từ Trung Quốc, Liên Xô và các nước XHCN cho cách mạng Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Sau Hiệp định Giơnevơ, miền Bắc được hòa bình, lực lượng tình báo, gián điệp của các nước đế quốc tăng cường các hoạt động phá hoại miền Bắc Việt Nam. Chúng dùng nhiều thủ đoạn và phương tiện kỹ thuật để chống phá. Trong khi đó, LLCA nhân dân Việt Nam còn thiếu nhiều kinh nghiệm, số lượng cán bộ được đào tạo chính quy còn ít, chưa có phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ để phòng ngừa, phát hiện và đấu tranh chống lại những hoạt động chống phá của địch.
LLCA nhân dân Việt Nam nhận thức rõ, để xây dựng lực lượng đủ mạnh đáp ứng yêu cầu của thực tiễn công tác, bên cạnh việc phát huy những yếu tố nội lực, thì yêu cầu cấp thiết đặt ra trong công tác xây dựng LLCA là phải trang bị kiến thức nghiệp vụ, khoa học kỹ thuật cho đội ngũ cán bộ, chiến sĩ. Từ đó, Bộ Công an quyết định tranh thủ sự giúp đỡ của Bộ Nội vụ một số nước trong phe XHCN, đặc biệt là sự giúp đỡ của Liên Xô, nhằm từng bước nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ, chiến sĩ Công an và xây dựng cơ sở kỹ thuật ban đầu cho ngành.
Cuối năm 1955, mối quan hệ hợp tác giúp đỡ giữa công an Việt Nam và Liên Xô được chính thức thiết lập. Việc cộng tác với Ủy ban An ninh quốc gia Liên Xô được xác định là có tầm chiến lược quan trọng. Ủy ban An ninh quốc gia Liên Xô đã giúp xây dựng LLCA nhân dân Việt Nam toàn diện, trong đó tập trung vào hai nhiệm vụ trọng tâm là đào tạo cán bộ và trang bị vật tư, vũ khí, phương tiện kỹ thuật.
Trên lĩnh vực đào tạo cán bộ, Liên Xô đã giúp LLCA Việt Nam đào tạo đội ngũ cán bộ, chiến sĩ công an đủ năng lực hoàn thành nhiệm vụ được giao. Với kinh nghiệm hơn 40 năm đấu tranh phản gián, Ủy ban An ninh quốc gia Liên Xô đã giúp LLCA Việt Nam đào tạo một số lượng lớn cán bộ, từng bước kiện toàn lực lượng, xây dựng một số điều lệnh, điều lệ, chế độ công tác và xây dựng hệ thống giáo trình giảng dạy trong các trường công an. Đầu năm 1959, Liên Xô đã cử chuyên gia đến hỗ trợ Trường Công an Trung ương xây dựng nội dung, chương trình đào tạo, đồng thời trực tiếp giảng dạy, huấn luyện cho cán bộ giảng viên của trường. Nội dung giảng dạy được cán bộ các phòng nghiên cứu ghi chép lại tỉ mỉ làm cơ sở để xây dựng, biên soạn thành bài giảng để sử dụng đào tạo tại trường(3).
Năm 1960, một số cán bộ, chiến sĩ công an đã trải qua kháng chiến chống thực dân Pháp được Bộ Công an cử sang bổ túc nghiệp vụ tại Liên Xô. Sau khóa bổ túc nghiệp vụ đầu tiên, Liên Xô đã giúp đào tạo hàng nghìn cán bộ, chiến sĩ công an. Hầu hết, số cán bộ được đào tạo tại Liên Xô sau này trở thành cán bộ lãnh đạo chủ chốt của LLCA các cấp như: đồng chí Bùi Thiện Ngộ - nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an); đồng chí Trần Quyết - nguyên Bí thư Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Nội vụ; đồng chí Phạm Tâm Long - nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Thường trực Bộ Nội vụ...(4)
Trong khoảng thời gian từ cuối những năm 1970 đến giữa những năm 1980, các cơ quan an ninh và nội vụ của Liên Xô, đặc biệt là Ủy ban An ninh quốc gia Liên Xô, đã giúp Việt Nam đào tạo 2.380 cán bộ, bao gồm cán bộ lãnh đạo từ cấp Trung ương đến địa phương và các cán bộ chuyên môn kỹ thuật với các chuyên ngành phản gián, ngoại tuyến, an ninh, văn hóa tư tưởng, cơ yếu, cảnh sát, kỹ thuật nghiệp vụ(5); số cán bộ này là nguồn nhân lực quý giá của LLCA nhân dân Việt Nam.
Với sự giúp đỡ của Liên Xô, LLCA Việt Nam đào tạo được đội ngũ cán bộ, chiến sĩ có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ chuyên sâu và có hiểu biết về khoa học kỹ thuật cao; được tiếp cận với những tri thức mới và những kinh nghiệm nghiệp vụ được tích lũy từ nhiều thập kỷ đấu tranh chống gián điệp, góp phần từng bước xây dựng LLCA vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn cách mạng.
Song song với việc đào tạo đội ngũ cán bộ, Ủy ban An ninh quốc gia Liên Xô còn giúp Công an Việt Nam xây dựng một số công trình khoa học kỹ thuật quan trọng như: 5 cơ sở kỹ thuật thử nghiệm vô tuyến điện sử dụng trong công tác nghiệp vụ, được lắp ráp năm 1957; công trình “Phương Đông” phục vụ cho công tác thám không được khởi công xây dựng năm 1960 và đưa vào sử dụng năm 1963; công trình 75810 (công trình “Phương Đông II”) phục vụ công tác mã thám gồm Trung tâm phát Hà Đông,Trạm định vị ở Quảng Bình, Điện Biên Phủ, tổng trị giá 17 triệu rúp; công trình 75812 (Trường Sĩ quan An ninh) quy mô 1.000 học viên, trị giá 3,5 triệu rúp; công trình 75822 (Trường Cao đẳng Phòng cháy Chữa cháy) quy mô 300 học viên, trị giá 1,36 triệu rúp; viện trợ bổ sung công trình 75391 (phục vụ công tác trinh sát kỹ thuật); trung tâm máy tính điện tử phục vụ công tác xử lý tin tức và viện trợ hệ thống vô tuyến điện thoại Altai nhằm tăng cường khả năng thông tin liên lạc trong LLCA Việt Nam...(6)
Ngoài những công trình khoa học kỹ thuật nghiệp vụ quan trọng phục vụ công tác chiến đấu lâu dài, Liên Xô còn viện trợ cho Bộ Công an nhiều phương tiện, vũ khí hiện đại để phục vụ yêu cầu chiến đấu cấp bách trước mắt như: 125 xe thông tin các loại, 85 bộ đàm, 65 máy phát điện 5 KW, 30 tổng đài dã chiến 10 số, 500km đường dây điện thoại dã chiến; 60 xe ô tô gắn thiết bị thông tin vô tuyến, 100 máy đàm thoại cực ngắn(7)...
Chỉ tính riêng các phương tiện chữa cháy, theo tổng kết của lực lượng Phòng cháy chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ Việt Nam, qua 10 năm (từ năm 1965-1975) từ chỗ chỉ có 11 địa phương được trang bị 24 xe và 10 máy bơm chữa cháy, dần dần đã có 20 địa phương được trang bị 166 xe và 128 máy bơm chữa cháy, gồm 19 chủng loại do 5 nước sản xuất, trong đó phần lớn là của Liên Xô(8).
Các cơ sở vật chất và phương tiện thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ do Liên Xô viện trợ đã góp phần làm tăng thêm sức chiến đấu cho LLCA Việt Nam trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Ngoài ra, Bộ Công an Việt Nam cũng đẩy mạnh quan hệ hợp tác với LLCA các nước XHCN như: Bộ Công an Cộng hòa Dân chủ Đức, Bộ Nội vụ Hungari... Thông qua mối quan hệ lãnh đạo, LLCA đã đề nghị phía nước bạn giúp xây dựng nhiều công trình, viện trợ nhiều phương tiện, vũ khí hiện đại, phục vụ đắc lực công tác và chiến đấu. Cụ thể: Cộng hòa Dân chủ Đức viện trợ công trình tổng đài điện thoại di động đầu tiên của LLCA; Bộ Nội vụ Hungari viện trợ một số phương tiện nghe bí mật và phát hiện nghe bí mật, công tác mở khóa và chụp ảnh bí mật, công tác kiểm duyệt thư tín và bưu kiện và một số phương tiện khoa học kỹ thuật hình sự...
Trong hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc từ năm 1945 đến 1975, bám sát và vận dụng sáng tạo đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, LLCA nhân dân đã phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân và tranh thủ sự giúp đỡ nhiệt tình, có hiệu quả của các lực lượng an ninh, nội vụ các nước XHCN, góp phần xây dựng, củng cố LLCA nhân dân. Từ một lực lượng còn thiếu hầu như toàn bộ trang thiết bị kỹ thuật và thiếu kinh nghiệm, LLCA nhân dân được tăng cường, trở thành lực lượng có đội ngũ cán bộ nghiệp vụ được đào tạo tại chỗ và nước ngoài, có cơ sở kỹ thuật với trang thiết bị tiên tiến, đủ khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Sự hỗ trợ về nhiều mặt của Đảng, Chính phủ và nhân dân các nước dành cho Việt Nam nói chung và cho LLCA nói riêng, có ý nghĩa to lớn, góp phần xây dựng LLCA nhân dân Việt Nam thực sự lớn mạnh toàn diện. Trong thời điểm Việt Nam là ngọn cờ đầu trong phong trào chống đế quốc, sự giúp đỡ của các nước trong hệ thống XHCN có ảnh hưởng quan trọng đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Từ thực tiễn kết quả của công tác đối ngoại Công an nhân dân trong hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, đã để lại một số kinh nghiệm lịch sử như sau:
Thứ nhất, phải luôn quán triệt đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn nhiệm vụ công tác của LLCA nhân dân trong công tác đối ngoại.
Thứ hai, xác định và coi trọng mối quan hệ hợp tác quốc tế với các nước láng giềng, nhất là các nước có chung đường biên giới, đó là nhân tố quan trọng, thiết thực cho việc phòng ngừa và đấu tranh với các đối tượng thù địch và tội phạm.
Thứ ba, luôn tích cực, chủ động trong việc thúc đẩy quan hệ đối ngoại và hợp tác quốc tế; đồng thời, xác định hợp tác phải có trọng tâm, trọng điểm mới đem lại hiệu quả cao.
Thứ tư, để việc hợp tác có hiệu quả, đi vào chiều sâu và giúp lãnh đạo nắm được toàn diện các mặt của công tác đối ngoại, cần có một tổ chức chuyên trách, chuyên sâu công tác này.
2. Vận dụng kinh nghiệm vào công tác đối ngoại Công an nhân dân trong tình hình mới
Trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang bước vào giai đoạn hội nhập quốc tế sâu rộng, với nhiều thời cơ, thuận lợi đan xen và không ít nguy cơ, thách thức trong quá trình phát triển, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Xu hướng vận động của quan hệ quốc tế đang diễn ra rất phức tạp, tác động trực tiếp đến lợi ích, an ninh quốc gia. Định hướng công tác đối ngoại trong tình hình mới được Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam”(9).
Nhất quán thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng, LLCA nhân dân đã độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ và tích cực hội nhập quốc tế, từ đó đưa công tác đối ngoại Công an nhân dân được mở rộng, đi vào chiều sâu, thực chất trên nhiều lĩnh vực, với nhiều đối tác. Đến nay, Bộ Công an đã có quan hệ hợp tác với 194 quốc gia thành viên của Tổ chức Cảnh sát hình sự quốc tế INTERPOL; trong đó, quan hệ chính thức với 150 bộ, cơ quan ngang bộ của 64 quốc gia và vùng lãnh thổ, thiết lập quan hệ nhiều mặt với cơ quan thực thi pháp luật của các nước Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, tham gia hoạt động tại 18 tổ chức, 13 diễn đàn, 12 cơ chế hợp tác trong và ngoài khu vực.
Quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, vận dụng những kinh nghiệm được đúc kết từ lịch sử đối ngoại LLCA giai đoạn 1945-1975, phát huy vai trò của công tác đối ngoại Công an nhân dân, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng cần tập trung làm tốt một số nội dung:
Một là, quán triệt, thực hiện nghiêm túc chủ trương, chính sách đối ngoại, hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước theo định hướng “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”, với phương châm “triển khai đồng bộ và toàn diện” các hoạt động đối ngoại trên các lĩnh vực mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra. Kết hợp tốt giữa hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao chuyên ngành công an trong triển khai công tác đối ngoại; gắn hoạt động đối ngoại, hợp tác quốc tế với công tác bảo vệ an ninh quốc gia, duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới.
Hai là, tiếp tục củng cố, mở rộng, phát triển quan hệ hợp tác liên quan đến công tác đối ngoại với các nước và các tổ chức quốc tế, từng bước đưa các mối quan hệ hợp tác đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững, có trọng tâm, trọng điểm. Chủ động nắm bắt thời cơ, nhận thức rõ thách thức, lựa chọn mức độ, cấp độ tham gia và tích cực khởi xướng các cơ chế liên kết khu vực, quốc tế về an ninh, phù hợp với lợi ích an ninh quốc gia của Việt Nam.
Ba là, tích cực tham mưu, đề xuất sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo hành lang pháp lý phục vụ hiệu quả công tác đối ngoại, hợp tác quốc tế. Tiếp tục nghiên cứu xây dựng, đàm phán, ký kết hoặc trình cấp có thẩm quyền ký kết, phê duyệt, phê chuẩn các điều ước, thỏa thuận quốc tế song phương và đa phương nhằm tạo hành lang pháp lý phù hợp, đáp ứng yêu cầu hợp tác bảo vệ an ninh quốc gia.
Bốn là, khẩn trương rà soát và bố trí nhiệm vụ công tác phù hợp năng lực đối với lực lượng chuyên trách thực hiện công tác đối ngoại công an nhân dân; chú trọng xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ công tác công an nói chung và nhiệm vụ đối ngoại, hợp tác quốc tế của LLCA nói riêng.
Năm là, tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ huy theo hướng chủ động, trách nhiệm, chuyên nghiệp và hiệu quả, góp phần thực hiện thắng lợi “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ chủ quyền, phục vụ sự phát triển bền vững và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế của đất nước.
Làm tốt công tác đối ngoại, LLCA nhân dân đã tạo được thế trận vững chắc, nâng cao tiềm lực và vị thế của Công an Việt Nam. Sự tin cậy chính trị từ kết quả hợp tác an ninh đã tạo điều kiện mở rộng và phát triển hợp tác trên nhiều lĩnh vực, góp phần củng cố quan hệ giữa Việt Nam và các nước ngày càng sâu rộng, toàn diện và hiệu quả./.
__________________________________________
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, T.5, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.256.
(2), (5) Bộ Công an: Kỷ yếu Hội thảo khoa học lịch sử Công an nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2010, tr.133,136.
(3) Học viện An ninh nhân dân: Lịch sử Học viện An ninh nhân dân, lưu hành nội bộ, Hà Nội, 2006, tr.55.
(4), (6), (7) Bộ Công an: Vụ Hợp tác quốc tế, Tổng kết lịch sử công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế của lực lượng Công an nhân dân Việt Nam (1950-2005), Hà Nội, 2007, tr.12, 13, 19.
(8) Bộ Công an: Lịch sử công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của lực lượng công an nhân dân Việt Nam (1961-2016) Lưu hành nội bộ, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2016.
(9) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, T.II, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.331-332.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị điện tử ngày 2/8/2022
Bài liên quan
- Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
- Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
- Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- Phát huy vai trò của ngành công nghiệp xuất bản trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 3 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 4 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 5 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Xây dựng phẩm chất nghề nghiệp người làm báo theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà báo vĩ đại, tấm gương sáng ngời để chúng ta thường xuyên học tập và noi theo. Trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ truyền thông, báo mạng điện tử ngày càng phát triển mạnh mẽ, báo chí truyền thống đứng trước cơ hội và thách lớn. Báo chí nước ta là vũ khí tư tưởng quan trọng của Đảng và Nhà nước, diễn đàn của nhân dân, góp phần to lớn vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Bài viết sau đây trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng phẩm chất nghề nghiệp người làm báo trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, đồng thời hưởng ứng cuộc vận động “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh”, góp phần xây dựng nền báo chí Việt Nam chuyên nghiệp, nhân văn, hiện đại theo chủ trương của Đại hội lần thứ XIII của Đảng. Đây cũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của công tác tư tưởng, lý luận và báo chí của Đảng, đáp ứng yêu cầu cấp bách và có ý nghĩa cơ bản, lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Nhìn toàn bộ tiến trình lịch sử chính trị của dân tộc, “Hệ thống chính trị” nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thiết chế chính trị mạnh, mô hình này phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đúng với quy luật vận động của lịch sử. Và, cũng từ thực tế lịch sử, có thể thấy sức mạnh thực sự của Hệ thống chính trị mà chúng ta đang có chủ yếu không phải do tính chất nhất nguyên mà là do uy tín của Đảng, Nhà nước và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sức sống của hệ thống chính trị là sự phù hợp, thống nhất giữa mục đích của Đảng với nguyện vọng của nhân dân, với nhu cầu phát triển của đất nước. Hệ thống chính trị Việt Nam đương đại, trên cơ sở kết tinh các giá trị thiết chế truyền thống gắn với hiện đại không ngừng đổi mới phát triển khẳng định sức mạnh của Hệ thống tổ chức quyền lực Chính trị Việt Nam có vai trò quyết định thành công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Xây dựng tổ chức bộ máy hiệu lực, hiệu quả là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn kết, thống nhất, dũng cảm, sự hy sinh của từng cán bộ, đảng viên cùng với quyết tâm rất cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về xây dựng hệ thống chính trị với tiêu đề: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”:
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Với cộng đồng 54 dân tộc anh em, Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa đa dạng, phong phú, có những nét riêng, trở thành tài sản quý giá làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam độc đáo, đặc sắc. Giữ gìn và bảo vệ các giá trị di sản văn hóa truyền thống chính là góp phần củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc - một sức mạnh nội sinh to lớn và vĩ đại, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chạy đua vũ trang, các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraina ở Đông Âu, giữa Israel và Palestine vùng các tổ chức hồi giáo ở Trung Đông diễn biến ngày càng căng thẳng đe dọa tới hòa bình, an ninh khu vực và thế giới. Tuy vậy, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là mục tiêu hướng tới của các nước, là xu hướng chính trị -xã hội tất yếu của nhân loại, từ đó đặt ra vai trò, trách nhiệm của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Bình luận