Xây dựng cấu trúc xã hội phù hợp, góp phần đưa Việt Nam trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa
1. Cấu trúc xã hội và hướng tiếp cận
Cấu trúc xã hội hay còn gọi là cơ cấu xã hội là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội. Tuy nhiên, mỗi ngành có mối quan tâm và hướng tiếp cận riêng. Chẳng hạn, triết học Mác - Lênin quan tâm đến cấu trúc xã hội trong giải quyết mối quan hệ giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng, nhấn mạnh đến hạt nhân cốt lõi cấu trúc xã hội - giai cấp. Cấu trúc xã hội - giai cấp do phương thức sản xuất và trao đổi quyết định; khoa học lịch sử quan tâm đến vấn đề cấu trúc xã hội ở lát cắt lịch đại và đồng đại; khoa học kinh tế quan tâm đến vấn đề cấu trúc thành phần của nền kinh tế và tỷ trọng các ngành kinh tế;... Trong khi đó, xã hội học tiếp cận cấu trúc xã hội theo hướng tổng thể, đa chiều từ nhiều thành tố và các lát cắt cấu trúc xã hội khác nhau; nhằm trả lời câu hỏi tại sao lại có sự khác nhau về trình độ phát triển, năng lực phát triển, kết quả phát triển, hệ quả phát triển.
Từ góc độ tiếp cận xã hội học, cấu trúc xã hội là một hệ thống các thành phần và mối quan hệ xã hội tác động qua lại nhau; được tiếp cận và xem xét đồng thời ở nhiều khía cạnh, cấp độ khác nhau. Cấu trúc xã hội phản ánh những đặc tính, đặc điểm, điều kiện, nguồn lực, khả năng phát triển và khuynh hướng phát triển của một tổ chức, cộng đồng, quốc gia.
Các thành tố cơ bản để tạo nên cấu trúc xã hội bao gồm: (1) Hệ thống vị thế xã hội; (2) Hệ thống vai trò xã hội; (3) Hệ thống quan hệ và mạng lưới xã hội; (4) Hệ thống nhóm xã hội; (5) Hệ thống thiết chế xã hội; (6) Hệ thống thống giá trị, chuẩn mực xã hội và các thành tố khác.
Như vậy, các thành tố tạo nên một tổ chức, cộng đồng, quốc gia không phải từ những cá nhân đơn lẻ cộng lại; mà chính là các cá nhân này phải luôn được định vị trong mối quan hệ mang tính cấu trúc - hành động, bởi các thành tố cơ bản như đã nêu trên. Tiếp cận cấu trúc xã hội đặt ra yêu cầu phải đánh giá đúng hiện trạng phát triển của một tổ chức, cộng đồng và xã hội.
Căn cứ vào loại thành phần hay thành tố tạo nên hệ thống xã hội có thể phân biệt cấu trúc xã hội vi mô với thành phần chính là các cá nhân, nhóm xã hội, tổ chức, cộng đồng... nhỏ; và cấu trúc xã hội vĩ mô với thành phần chính là các nhóm xã hội, tổ chức, cộng đồng lớn; các giai tầng xã hội tạo nên hệ thống xã hội vĩ mô.
Căn cứ vào các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội có các phân hệ cấu trúc xã hội, như: cấu trúc xã hội - dân số, cấu trúc xã hội - nghề nghiệp, cấu trúc xã hội - giai tầng, cấu trúc xã hội - học vấn, cấu trúc xã hội - dân tộc, cấu trúc xã hội - tôn giáo và nhiều phân hệ cấu trúc xã hội khác.
Phân tích cơ cấu xã hội vĩ mô giúp hiểu được tính chất, trình độ phát triển của một cộng đồng, quốc gia dân tộc nhất định. Cấu trúc xã hội vừa được tạo ra nhờ hành động của con người vừa là phương tiện của hành động xã hội. Cấu trúc xã hội và hành động xã hội của chủ thể có tính chất hai mặt: cái này không thể tồn tại nếu thiếu cái kia. Điểm khác biệt cơ bản giữa cấu trúc xã hội với cấu trúc vật lý là tính hai mặt của cấu trúc xã hội, hay tính chất vừa bị quy định bởi cấu trúc, vừa chủ động sáng tạo cấu trúc của chủ thể. Xét ở phạm vi cá nhân, mỗi cá nhân luôn bị cấu trúc xã hội quy định, đồng thời đóng vai trò tạo dựng cấu trúc xã hội. Cấu trúc xã hội có tác động tích cực theo hướng tạo điều kiện, cơ hội và cả nguồn lực đối với hành động của các cá nhân. Đồng thời, thông qua hành động của các cá nhân, cấu trúc xã hội được hình thành tái tạo, vận động, biến đổi, phát triển.
Tiếp cận cấu trúc xã hội, trước hết cho thấy hai thành tố quan trọng và có mối quan hệ biện chứng với nhau để tạo lập cấu trúc xã hội, với thành phần cốt lõi là vị thế xã hội và vai trò xã hội.
(1) Vị thế xã hội chính là vị trí xã hội gắn với những trách nhiệm, lợi ích và giá trị xã hội kèm theo. Nó thể hiện thứ bậc dành cho mỗi cá nhân đó trong cơ cấu tổ chức, nhóm xã hội, cộng đồng và trong toàn bộ hệ thống xã hội. Mỗi vị thế xã hội luôn có các nhiệm vụ, quyền hạn và mong đợi khác nhau;
(2) Vai trò xã hội được hiểu là một tập hợp các chuẩn mực, hành vi, quyền lợi và nghĩa vụ được gắn liền với một vị thế xã hội nhất định. Nó nhấn mạnh những kỳ vọng xã hội gắn với những vị thế xã hội nhất định trong xã hội; là hành vi người ta mong đợi (được làm, được thực hiện) ở mỗi địa vị xã hội cho trước;
(3) Vị thế xã hội và vai trò xã hội luôn gắn bó mật thiết với nhau. Nhiều vị thế sẽ dẫn đến nhiều vai trò xã hội; vị thế càng cao thì vai trò xã hội càng phải tích cực. Nếu thực hiện tốt vai trò xã hội thì sẽ củng cố và thăng tiến vị thế xã hội và ngược lại. Do đó, một tổ chức và xã hội phát triển bền vững là luôn phải tạo cơ hội cho mọi thành viên không ngừng vươn lên các vị thế xã hội cao hơn gắn liền với các vai trò xã hội ngày một tích cực hơn.
Tiếp cận cấu trúc xã hội có thể phân chia vị thế - vai trò xã hội thành 2 loại: vị thế - vai trò xã hội gán cho và vị thế - vai trò xã hội đạt được, với đặc điểm hình thành và mục tiêu hướng đến rất khác nhau: (1) Vị thế và vai trò xã hội gán cho là loại vị thế và vai trò mà cá nhân không thể không tự quyết định lựa chọn mà nó được quy định bởi các yếu tố như: dòng dõi, thành phần gia đình, giới tính, màu da hay tuổi tác, quy định của tổ chức, bầu cử...; (2) Vị thế và vai trò xã hội đạt được là loại vị thế và vai trò xã hội mà các cá nhân đạt được bằng trí tuệ, năng lực, phẩm chất và những cố gắng đóng góp, cống hiến của bản thân trong quá trình xã hội hóa và các hoạt động xã hội của mình. Cá nhân lựa chọn, hướng tới các vai trò đó có ý nghĩa quyết định đối với việc cá nhân đó đạt được vai trò xã hội cao hay thấp. Và do đó, một tổ chức, cộng đồng và xã hội phát triển luôn phải hướng đến việc thúc đẩy mỗi cá nhân, thành viên bắt đầu từ vị thế và vai trò xã hội gán cho và không ngừng hướng tới mục tiêu vị thế và vai trò xã hội đạt được.
Thành tố nhóm xã hội luôn đóng vai trò cơ bản để định hình đặc điểm và sự phát triển một tổ chức, cộng đồng, quốc gia, dân tộc. Nhóm xã hội là một tập hợp người liên hệ với nhau về vị thế, vai trò, nhu cầu, lợi ích và những định hướng giá trị, chuẩn mực nhất định. Nhóm xã hội là đơn vị để phân tích, để hiểu đầy đủ cấu trúc xã hội của một tổ chức, cộng đồng và xã hội. Nhóm xã hội luôn gắn với quy mô, tính chất, mục tiêu khác nhau. Nhóm xã hội thể hiện bản chất của quá trình hấp dẫn, trao đổi, sự ảnh hưởng; cũng như mâu thuẫn, chống đối lẫn nhau giữa các cá nhân, nhóm xã hội, cộng đồng xã hội. Tiếp cận phân tích nhóm xã hội có vai trò, ý nghĩa quyết định đối với kết quả hoạch định và tổ chức thực hiện hệ thống chính sách, pháp luật. Hệ thống chính sách, pháp luật có thực sự đi vào cuộc sống hay không là phụ thuộc vào sự thẩm thấu, chia sẻ và hành động tích cực của các nhóm xã hội, chủ thể xã hội có liên quan.
Một tổ chức, cộng đồng và xã hội vận hành ra sao luôn được phản ánh thông qua các mạng lưới quan hệ xã hội. Mạng lưới xã hội là phức hợp các mối quan hệ của các cá nhân, nhóm xã hội. Mạng lưới xã hội thể hiện thông qua các quan hệ xã hội trên cơ sở: huyết thống, cộng đồng, tổ chức, nghề nghiệp, giai tầng xã hội, dân tộc...Các quan hệ xã hội chính là tương tác xã hội có mục đích, ổn định, lặp lại giữa các cá nhân.
Các mạng lưới xã hội có chức năng: (1) Duy trì, củng cố quan hệ xã hội; (2) Tạo dựng mối quan hệ xã hội mới; (3) Tạo dựng nguồn lực, nhất là vốn xã hội; (4) Tạo dựng vị thế xã hội và vai trò xã hội. Hệ thống các mạng lưới xã hội chính là môi trường tạo nên sự liên kết, thống nhất, đồng thuận của một tổ chức, cộng đồng và xã hội. Một tổ chức, nhóm, cộng đồng và quốc gia, dân tộc... muốn đạt đồng thuận tạo nên sức mạnh vượt trội để phát triển, cần nhấn mạnh sự tương tác, thấu hiểu, chia sẻ giá trị xã hội và sự đồng hành của tất cả các thành viên; giữa lực lượng lãnh đạo, quản lý và các giai tầng xã hội.
Hệ thống các hành vi và quan hệ xã hội luôn chịu sự chi phối bởi hệ thống thiết chế xã hội. Thiết chế xã hội được hiểu là một hệ thống tập hợp bền vững các giá trị, chuẩn mực, vị thế, vai trò, nhóm vận động xung quanh nhu cầu cơ bản của xã hội. Hệ thống thiết chế xã hội có các đặc điểm: (1) Tập hợp các nguyên tắc; (2) Cấu trúc chặt chẽ; (3) Khuyến khích, điều chỉnh, kiểm soát; (4) Chế tài các hành vi của con người; (5) Bền vững tương đối, chậm biến đổi; (6) Tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các thiết chế xã hội. Sự tồn tại và phát triển của thiết chế xã hội là do điều kiện khách quan, biểu hiện ở tính thống nhất với cơ sở kinh tế - xã hội. Bản thân thiết chế xã hội luôn có sự độc lập tương đối và có tác động trở lại đối với cơ sở kinh tế - xã hội. Bất kỳ một sự thay đổi trong một thiết chế xã hội nào đó đều có thể đưa đến sự thay đổi đáng kể của các thiết chế xã hội khác. Chẳng hạn, một sự thay đổi tích cực của thiết chế giáo dục sẽ dẫn đến những tác động tích cực của các thiết chế xã hội: kinh tế, chính trị, pháp luật, văn hóa, gia đình... và ngược lại.
Một tổ chức, cộng đồng và xã hội được vận hành luôn được điều tiết bởi hệ thống chuẩn mực và giá trị xã hội hiện hành. Chuẩn mực xã hội chính là hệ thống các quy tắc điều chỉnh, là thước đo hành vi của cá nhân và nhóm được xã hội chia sẻ và mong đợi. Những biểu hiện tiêu cực, vi phạm pháp luật trong xã hội chính là biểu hiện về sự xung đột giữa các hệ thống chuẩn mực xã hội với nhau (nhất là chuẩn mực pháp luật và chuẩn mực đạo đức) với chuẩn mực kinh tế thị trường; giữa chuẩn mực của xã hội với chuẩn mực cá nhân. Giá trị xã hội là quan niệm về điều mong muốn đặc trưng hiện hay ẩn cho một cá nhân (nhóm xã hội), ảnh hưởng tới việc chọn các phương thức, phương tiện hay mục tiêu của hành động. Xã hội muốn ổn định và phát triển thì đòi hỏi phải phát triển và tôn trọng giá trị cá nhân, tuy nhiên giá trị cá nhân không được xâm phạm hay xung đột với hệ giá trị xã hội, giá trị cộng đồng và giá trị tập thể. Ngược lại, giá trị cá nhân luôn phải nương tựa, đồng hành và góp phần vun đắp cho hệ thống giá trị xã hội.
2. Đổi mới, phát triển đất nước Việt Nam trong bối cảnh mới - một số định hướng từ góc độ xây dựng cấu trúc xã hội phù hợp
Từ góc độ tiếp cận cấu trúc xã hội, có thể nhận thấy, trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta đã thể hiện rõ tư duy, tầm nhìn và hành động nhằm hướng tới xây dựng cấu trúc xã hội phù hợp trong bối cảnh mới, khi xác định mục tiêu tổng quát: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(1). Đặc biệt là yêu cầu phải: dự báo đúng biến đổi cơ cấu xã hội ở nước ta trong những năm tới, xây dựng các chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội phù hợp. Giải quyết hài hòa các quan hệ xã hội, kiểm soát phân tầng xã hội và xử lý kịp thời, hiệu quả các rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của nhân dân(2).
Quá trình xây dựng cấu trúc xã hội để hướng đến mục tiêu đổi mới và phát triển xã hội bền vững của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay chính là quá trình xây dựng, phát triển các thành phần của cấu trúc xã hội; quá trình xác lập các mối quan hệ giữa các thành phần tạo nên cấu trúc xã hội một cách phù hợp với yêu cầu và bối cảnh mới của đất nước. Quá trình xây dựng cấu trúc xã hội là thường xuyên nhằm phát hiện và khắc phục những hạn chế, thiếu sót, bất cập trong quá trình hoạch định và tổ chức thực hiện phát triển hệ thống kinh tế - xã hội. Một trong những yếu tố cốt lõi để thúc đẩy tổ chức, cộng đồng và đất nước Việt Nam phát triển bền vững cần nhấn mạnh, giải quyết có hiệu quả vấn đề: xây dựng, tái cấu trúc xã hội phù hợp với điều kiện, nguồn lực, mục tiêu, yêu cầu... trong bối cảnh mới. Đồng thời, cần dự báo, xây dựng một cấu trúc xã hội phát triển phù hợp, trong đó cần ưu tiên xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh; gắn xây dựng giai cấp nông dân với phát triển nông nghiệp và quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa nông thôn... Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong tình hình mới... Phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh về số lượng và chất lượng, có tinh thần cống hiến cho dân tộc(3).
Trong tư duy, tầm nhìn và hành động cần xác lập cấu trúc xã hội là một công cụ tiếp cận và phân tích quan trọng; giúp chúng ta nhận thức được một tổ chức, cộng đồng, đất nước Việt Nam trong tiến trình phát triển đã, đang và sẽ có những thành công và hạn chế như thế nào; những thuận lợi, khó khăn trở ngại chủ yếu ra sao; các giải pháp và mục tiêu đề ra có tính khả thi hay không...? Từ phương diện tiếp cận cấu trúc xã hội, có thể khẳng định quá trình đổi mới và phát triển đất nước Việt Nam hướng mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chính là quá trình biến đổi, điều chỉnh và phát triển quan hệ giữa các thành phần và trật tự thứ bậc, các mối quan hệ trong nội bộ cấu trúc xã hội theo nghĩa rộng; là quá trình hướng đến sự hài hòa, đồng bộ giữa cấu trúc xã hội, cấu trúc chính trị và cấu trúc kinh tế.
Để từng bước có một cấu trúc xã hội phù hợp nhằm thúc đẩy xã hội phát triển bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cần tạo dựng mối quan hệ vị thế xã hội và vai trò xã hội trong cấu trúc xã hội phù hợp; quyền lợi, nghĩa vụ tương ứng với vị thế và vai trò mong đợi của xã hội. Đồng thời, để hướng đến một xã hội năng động, phát triển và bảo đảm mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa cần tạo động lực tích cực cho sự chuyển hóa liên tục về vị thế và vai trò của cá nhân, nhóm xã hội. Bên cạnh đó, cần thúc đẩy việc hình thành và phát huy vai trò của hệ thống giá trị, chuẩn mực xã hội phù hợp với bối cảnh phát triển mới của đất nước.
Cần định vị và xây dựng cho toàn bộ xã hội Việt Nam không chỉ hành động vì mục tiêu lợi ích (lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội chính đáng) mà quan trọng hơn là phải đi tới một xã hội được dẫn dắt và hành động bởi động lực thúc đẩy giá trị xã hội. Đặc biệt, trong bối cảnh xã hội mà sự mâu thuẫn, xung đột xã hội cũng như giá trị xã hội và niềm tin xã hội đang có nhiều biểu hiện bất cập. Do đó, để bảo đảm mục tiêu trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, rất cần bảo đảm động lực thúc đẩy cho con người và xã hội phát triển không chỉ là “lợi ích xã hội mà còn là giá trị xã hội”. Đó là việc các cá nhân, nhóm, cộng đồng, giai tầng xã hội hướng tới lợi ích hài hòa và các giá trị tiến bộ, nhân văn, vì hạnh phúc bền vững trong phát triển xã hội.
Cần thúc đẩy hệ thống giá trị xã hội theo định hướng chủ đạo: (1) sự tiến bộ, công bằng và bình đẳng xã hội; (2) cơ hội, khát vọng và năng lực làm giàu chính đáng, hợp pháp của mọi người dân, mọi giai tầng xã hội; (3) sự tự do sáng tạo, tích cực thực hành dân chủ gắn với kỷ cương, kỷ luật trong xã hội; (4) sự đồng thuận, đoàn kết hữu cơ, “cùng thích nghi, cùng thắng, cùng phát triển” và công dân toàn cầu. Việc định hướng xây dựng, “lợi ích hài hòa”, “xã hội giá trị” là quá trình lâu dài, do đó cần có sự lãnh đạo thống nhất, trực tiếp và liên tục của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cần đẩy mạnh việc “rút ngắn khoảng cách” tình trạng không tương thích giữa cách thức, mục tiêu học tập, đào tạo, bồi dưỡng và với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong bối cảnh mới. Muốn vậy, cần xử lý tốt mối quan hệ giữa mục tiêu giáo dục nhằm tạo ra những chủ thể xã hội có tính sáng tạo, có tinh thần dân chủ, tự do gắn liền với tính trách nhiệm xã hội và kỷ cương, kỷ luật cao. Đồng thời, mỗi con người, thành viên của tổ chức, cộng đồng và quốc gia dân tộc luôn phải có ý thức thực hiện tốt mục tiêu: “học tập suốt đời, học tập ở mọi nơi, mọi lúc; học biết cách học, học để làm việc; học để sáng tạo, học để chung sống”. Muốn vậy, quá trình giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, xã hội hóa cần nhấn mạnh tính phù hợp, tương tác xã hội thường xuyên, khả năng tự học hỏi lẫn nhau của các chủ thể xã hội.
Cần thực sự quán triệt và thực hiện có hiệu quả quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam: “Con người là trung tâm của quá trình phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời vừa là mục tiêu vừa là động lực của quá trình phát triển kinh tế - xã hội”. Cần định vị và xây dựng các nhóm xã hội trong cấu trúc xã hội theo định hướng mô hình: (1) phát triển, trọng dụng và phát huy tối đa vai trò của nhóm xã hội cống hiến/tinh hoa; (2) mở rộng và phát huy tối đa vai trò của “nhóm nền”- tức là xây dựng mở rộng tối đa hóa những công dân tích cực, trách nhiệm xã hội của đất nước; (3) quan tâm thực hiện có hiệu quả các chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, gắn kết và phát huy vai trò của nhóm “yếu thế” trong xã hội; (4) thực hiện kiểm soát, giảm thiểu thấp nhất về quy mô và tác hại xã hội đối với nhóm sai lệch xã hội, nhóm vi phạm pháp luật, nhóm tội phạm; (5) thực hiện tốt chính sách đền ơn đáp nghĩa đối với gia đình chính sách, người có công.
Phát huy vai trò của các môi trường xã hội hóa: vai trò gia đình, nhà trường, nhóm xã hội, truyền thông... trong quá trình xây dựng cấu trúc xã hội phù hợp với mục tiêu trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI. Quá trình xã hội hóa cần tạo lập vị thế và vai trò xã hội ở 3 cấp độ mục tiêu cơ bản: (1) làm con người hiện đại, hội nhập trong mối quan hệ với cộng đồng nhân loại trên thế giới; (2) làm công dân có trách nhiệm xã hội trong mối quan hệ với quốc gia, dân tộc; (3) làm phận sự chức nghiệp hiệu lực, hiệu quả trong mối quan hệ với vị thế, vai trò nghề nghiệp, lĩnh vực hoạt động.
Trong hoạch định, xây dựng và tổ chức thực hiện hệ thống chính sách phát triển kinh - tế xã hội của đất nước, cần tăng cường tính kết nối bởi các lát cắt cấu trúc xã hội khác nhau: (1) Cấu trúc xã hội - giai cấp; (2) Cấu trúc xã hội - nghề nghiệp, mức sống; (3) Cấu trúc xã hội - dân số; (4) Cấu trúc xã hội - giới; (5) Cấu trúc xã hội - tuổi; (6) Cấu trúc xã hội - học vấn; (7) Cấu trúc xã hội - dân tộc; (8) Cấu trúc xã hội - tôn giáo; (9) Cấu trúc xã hội nông thôn - đô thị. Trên cơ sở đó sẽ phát huy tối đa sức mạnh, khả năng tác động, mức độ thành công; cũng như nhìn thấy được sự “giới hạn” của từng chính sách kinh tế - xã hội trong tổng thể mục tiêu phát triển đất nước: nhanh, hài hòa và bền vững.
Trong các hoạt động quản lý, giải quyết có hiệu quả các vấn đề kinh tế - xã hội ở Việt Nam, bên cạnh hoạt động quản lý nhà nước cần gia tăng tư duy, phương pháp và mô hình quản lý phát triển xã hội. Trong đó nhấn mạnh vai trò tham gia đa chủ thể quản lý, bằng nhiều hệ thống công cụ quản lý; quan tâm và tập trung vào những vấn đề mà quản lý nhà nước chưa vươn tới, gặp khó khăn, ít hiệu quả... Chẳng hạn, để kiểm soát xã hội, kiểm soát quyền lực, kiểm soát tham nhũng... có hiệu lực và hiệu quả cần phát huy vai trò tham gia của nhiều chủ thể xã hội và thông qua hệ thống công cụ tác động đồng thời bởi các thiết chế xã hội: thiết chế pháp luật, thiết chế chính trị, thiết chế kinh tế, thiết chế gia đình, thiết chế giáo dục, thiết chế đạo đức, thiết chế văn hóa, thiết chế tôn giáo, thiết chế truyền thông, thiết chế dư luận xã hội...
Để bảo đảm một cấu trúc xã hội của Việt Nam phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phát triển đô thị bền vững; xây dựng nông thôn mới; thực hiện dân chủ gắn liền với trách nhiệm, kỷ cương xã hội... nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước trên 5 trụ cột: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường, cần phải bảo đảm hệ thống chuẩn mực và giá trị xã hội hiện hành của đất nước có tác động sâu rộng trong nhận thức và hành động của mọi giai tầng xã hội. Đó là, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc; “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; “nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”.
____________________________________________
(1), (2), (3) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, T.I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.14, 148, 166-167.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị ngày 5/9/2022
Bài liên quan
- Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
- Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
- Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- Phát huy vai trò của ngành công nghiệp xuất bản trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 3 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 4 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 5 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Báo chí Việt Nam và Cu Ba chia sẻ kinh nghiệm, hứa hẹn mở ra sự hợp tác tương lai
Việt Nam - Cuba là biểu tượng sáng ngời về tình đoàn kết hữu nghị quốc tế. Hai dân tộc đã sát cánh bên nhau trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Tình hữu nghị đặc biệt này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Fidel Castro vun đắp qua nhiều thế hệ và trở thành một tài sản vô giá của cả hai dân tộc.
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Nhìn toàn bộ tiến trình lịch sử chính trị của dân tộc, “Hệ thống chính trị” nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thiết chế chính trị mạnh, mô hình này phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đúng với quy luật vận động của lịch sử. Và, cũng từ thực tế lịch sử, có thể thấy sức mạnh thực sự của Hệ thống chính trị mà chúng ta đang có chủ yếu không phải do tính chất nhất nguyên mà là do uy tín của Đảng, Nhà nước và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sức sống của hệ thống chính trị là sự phù hợp, thống nhất giữa mục đích của Đảng với nguyện vọng của nhân dân, với nhu cầu phát triển của đất nước. Hệ thống chính trị Việt Nam đương đại, trên cơ sở kết tinh các giá trị thiết chế truyền thống gắn với hiện đại không ngừng đổi mới phát triển khẳng định sức mạnh của Hệ thống tổ chức quyền lực Chính trị Việt Nam có vai trò quyết định thành công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Xây dựng tổ chức bộ máy hiệu lực, hiệu quả là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn kết, thống nhất, dũng cảm, sự hy sinh của từng cán bộ, đảng viên cùng với quyết tâm rất cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về xây dựng hệ thống chính trị với tiêu đề: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”:
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Với cộng đồng 54 dân tộc anh em, Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa đa dạng, phong phú, có những nét riêng, trở thành tài sản quý giá làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam độc đáo, đặc sắc. Giữ gìn và bảo vệ các giá trị di sản văn hóa truyền thống chính là góp phần củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc - một sức mạnh nội sinh to lớn và vĩ đại, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chạy đua vũ trang, các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraina ở Đông Âu, giữa Israel và Palestine vùng các tổ chức hồi giáo ở Trung Đông diễn biến ngày càng căng thẳng đe dọa tới hòa bình, an ninh khu vực và thế giới. Tuy vậy, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là mục tiêu hướng tới của các nước, là xu hướng chính trị -xã hội tất yếu của nhân loại, từ đó đặt ra vai trò, trách nhiệm của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Bình luận