“Lỗi cơ bản” trong công tác tuyên truyền miệng
"Cháy" giáo án
Xét về lý thuyết, việc phân bổ thời gian giữa các ý, các nội dung của bài tuyên truyền cần có sự hợp lý, khoa học và logic, tạo nên tổng thể cân đối. Việc “cháy” giáo án, cháy “đề cương” xảy ra thường do việc báo cáo viên quá say sưa tập trung vào một phần nào đó, mà quên đi tính cân xứng tương đối giữa các nội dung.
Tất nhiên, cũng có thể báo cáo viên tập trung vào một, hai phần chính, lướt qua ở những phần còn lại, nhưng việc “cháy” giáo án, đề cương bài nói tới mức “đầu voi đuôi chuột”, thậm chí phần đuôi gần như chỉ còn là những đề mục, không phân tích, thiếu thông tin minh chứng… dẫn tới sự thiếu hoàn chỉnh của nội dung tuyên truyền, gây khó khăn cho đối tượng tiếp nhận thông tin.
Không loại trừ việc “cháy” giáo án xuất phát chính từ đòi hỏi của người nghe. Có những trường hợp, trong quá trình tuyên truyền, quán triệt, các học viên đề nghị báo cáo viên nói rõ, phân tích rõ hơn phần hoặc nội dung nào đó, dẫn tới, các phần nội dung sau bị cắt bớt cho kịp thời gian. Việc cắt bớt này “khéo léo” hay “vụng về” phụ thuộc vào bản lĩnh, cách xử lý của báo cáo viên, tuyên truyền viên.
Không phân biệt đối tượng tiếp nhận thông tin
Việc phân biệt các đối tượng tiếp nhận thông tin để lựa chọn hình thức thông tin, phương thức thông tin, nội dung thông tin là một trong những yêu cầu quan trọng của báo cáo viên, tuyên truyền viên. Cách nói chuyện với tầng lớp thanh niên chắc chắn sẽ khác với đối tượng người cao tuổi; giữa đội ngũ lãnh đạo cấp xã sẽ khác với đội ngũ lãnh đạo trong các cơ quan nhà nước… Tuy nhiên, thực tế, không ít báo cáo viên chưa có sự phân biệt rành rọt, chưa lựa chọn được thông tin phù hợp, nội dung cần quan tâm, phương thức chuyển tải thích hợp khi tiếp cận và tuyên truyền cho các đối tượng khác nhau.
Chuyện “dở khóc, dở cười” sẽ xảy ra khi mang những ý tưởng hàn lâm, ngôn ngữ khoa học quá chuyên biệt tới quán triệt cho những cán bộ thôn, xã; hay đưa những kiến thức ở dạng “vỡ lòng” tới phổ biến cho đội ngũ lãnh đạo cơ quan nhà nước.
Thiếu tương tác
Thiếu giao lưu, tương tác, trao đổi giữa người tuyên truyền và người nghe là một trong những nhược điểm thường mắc trong quá trình tuyên truyền miệng. Một phần do sự hạn chế về thời gian, dẫn tới, nói hết nội dung là hết giờ, báo cáo viên không thể xoay xở, dành dụm được chút nào, hoặc nếu có chỉ là tầm 10, 15 phút cuối, cũng không đủ để trao đổi, đối thoại, giải đáp thắc mắc.
Chưa kể, không ít báo cáo viên còn chưa có kinh nghiệm, ngại trao đổi, sợ bị đặt câu hỏi khó, nên sẽ càng tiết giảm phần thời gian trống để tương tác người nghe. Thiếu tương tác tạo nên những buổi tuyên truyền có tính độc thoại, kém hấp dẫn và sôi nổi, giảm hiệu quả tuyên truyền, cũng như không tháo gỡ được những khó khăn giúp cho học viên trong quá trình tiếp thu nội dung tuyên truyền.
Quá phụ thuộc công nghệ
Trong giai đoạn hiện nay, phần lớn báo cáo viên, tuyên truyền viên đều tận dụng ưu thế công nghệ thông tin để phục vụ bài nói của mình. Chỉ với laptop, thông qua hệ thống máy chiếu, bài giảng được trình bày slide, với text cùng hình ảnh, clip đã thực sự tạo ra sự sinh động, phong phú và dễ tiếp thu hơn rất nhiều đối với người nghe.
Tuy nhiên, nếu không biết tiết chế, gia giảm, người trình bày chỉ “chăm chăm” kích chuột, trình chiếu và người nghe chỉ mải miết xem, hưởng thụ như xem phim, thì sự lắng đọng, sự tiếp nhận thông tin sẽ chỉ dừng ở mức độ tầm trung. Chưa kể nhiều báo cáo viên chưa có kinh nghiệm làm slide, quá câu nệ hình thức, nên tăng các gam màu xanh đỏ, các khối hình vuông tròn, “cao hứng” lại cho slide lúc chạy nhanh, khi chạy chậm làm chóng mặt người tiếp nhận phía dưới.
Cũng có trường hợp dở khóc dở cười, máy tính hoặc máy chiếu trục trặc, buộc phải trao đổi “chay”. Người nói thì lúng túng, bất ngờ vào thế khó, vì vốn phụ thuộc công nghệ, bài chuẩn bị slide lại thường chỉ có ý chính, phụ thuộc video, ảnh minh họa, nên lúc trình bày sẽ bị hụt hẫng, “giảm nhiệt”.
“Phụ dài, chính ngắn”
Có báo cáo viên bào chữa lỗi này, rằng, trước khi đi giảng, bên mời thường nói nhỏ: Anh nói cho chúng em vài câu chuyện ngoài lề, cơ mật một chút, vui vẻ một chút, cho anh em đỡ mệt khi nghe truyền đạt. “Được lời như cởi tấm lòng”, người nói khi trình bày sẽ tiết giảm phần chính, đan xen phần phụ. Mà nội dung đan xen lại hơi dày. Người ngồi phía dưới lúc nghe vài câu chuyện vui, ngoài lề được báo cáo viên “chia sẻ riêng, phạm vi nhỏ” cũng thích, nhưng rốt cục tới cuối buổi, những câu chuyện vốn là phần phụ lại chiếm dung lượng khá nhiều trong khi phần chính lại thu nhỏ tối đa. Hiệu quả tuyên truyền vì vậy cũng giảm đi không ít…
Diễn ngôn chưa hấp dẫn
Một trong những yêu cầu cần thiết của báo cáo viên, tuyên truyền viên là phải có kỹ năng tuyên truyền để tăng tính hấp dẫn, thuyết phục và lôi cuốn đối với người nghe. Tuy nhiên, không phải bất kỳ báo cáo viên, tuyên truyền viên nào cũng có được kỹ năng này. Giọng nói đều đều, không lên trầm, xuống bổng; khuôn mặt thiếu biểu cảm; ngôn từ khô khan; khả năng thuyết trình chưa tốt… ít nhiều chi phối và làm giảm hiệu quả tuyên truyền. Không ít địa phương phản ánh, đề nghị các hội nghị báo cáo viên của tỉnh cần có báo cáo viên Trung ương về trực tiếp quán triệt, trao đổi. Một phần nguyên nhân cũng là kỹ năng của báo cáo viên địa phương chưa tốt, chưa lôi cuốn và thuyết phục với người nghe.
Khoe thành tích
“Lỗi” này khá cá biệt, nhưng lại thường tập trung vào một số báo cáo cáo viên, tuyên truyền viên lâu năm, được đi nhiều nơi, tiếp xúc nhiều người. Người nghe bên cạnh việc tiếp nhận thông tin tuyên truyền, sẽ được nghe “trải lòng” về chuyến đi nước A, nước B, việc dự hội nghị này, hội nghị khác, rồi những chuyện “bếp núc” phía sau; cá biệt còn được nghe kể về “lý lịch” thành tích của báo cáo viên.
Oái oăm là những câu chuyện đôi khi chệch quỹ đạo nội dung bài giảng, chỉ đơn thuần để kể cho vui mà thôi. Những “hương vị” này nếu chỉ là chút xíu thì người nghe còn cảm thấy chấp nhận được, nhưng nếu quá đà, thì những buổi thuyết giảng xen lẫn khoe thành tích cá nhân thực sự sẽ gây ức chế cho người nghe.
*
Những “lỗi” cơ bản nêu trên là những điều mà nhiều người làm công tác tuyên truyền miệng “không ít thì nhiều” đã từng mắc phải, có những lỗi thuộc về kỹ năng (diễn ngôn thiếu hấp dẫn), có những lỗi thuộc về thói quen (quá phụ thuộc công nghệ), có lỗi lại thuộc về bản tính, nhược điểm cá nhân (khoe thành tích), có những lỗi lại cần tích lũy thêm kinh nghiệm để xử lý (cháy giáo án, không phân biệt đối tượng tiếp nhận thông tin, thiếu tương tác)…Với mỗi lỗi, lại tương ứng với cách sửa lỗi khác nhau. Lỗi nhược điểm cá nhân, thì cần nhận rõ, khắc phục. Lỗi kỹ năng thì không cách gì khác hơn là phải thường xuyên trau dồi, lắng nghe góp ý, phê bình, tích cực học tập những báo cáo viên kinh nghiệm.
Một báo cáo viên “già nghề” đã từng chia sẻ rằng, ông thường xuyên tự ghi âm bài nói của mình về để nghe lại, tự chỉnh sửa những lỗi nếu phát hiện ra. Nghe lại, đôi khi thấy tự xấu hổ vì mình nói “chưa tới”, mắc những lỗi cơ bản trong tuyên truyền. Không những thế, ông luôn tìm cách tiếp cận học viên để thăm dò việc tiếp thu thông tin, góp ý cách trình bày của mình.
Nhận ra lỗi, sửa lỗi cũng cốt để hướng tới những buổi tuyên truyền, trao đổi, quán triệt hiệu quả, hạn chế tối đa những giờ quán triệt, học tập “online, lướt mạng” cho hết thời gian…
Suy cho cùng, nhìn lại mình, tự sửa mình, âu cũng là một cách để hoàn thiện mình của mỗi báo cáo viên, tuyên truyền viên./.
Nguồn: Bài đang trên Tạp chí của Ban Tuyên giáo Trung ương ngày 01.7.2021
Bài liên quan
- Ngoại giao văn hóa Nhật Bản thông qua Manga và Anime trong quảng bá Thế vận hội Olympic Tokyo 2020 và một số gợi mở thực tiễn đối với Việt Nam
- Ứng dụng câu lệnh điều khiển AI trong hoạt động giảng dạy của giảng viên: Thực trạng và giải pháp
- Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thông tin về sách giáo khoa trên báo mạng điện tử Việt Nam
- Năng lực ngôn ngữ và vai trò của năng lực ngôn ngữ đối với sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Một số yếu tố tác động đến đổi mới phương pháp định hướng dư luận xã hội ở nước ta hiện nay
Xem nhiều
-
1
Một số giải pháp xử lý thông tin giả, sai lệch, xuyên tạc tác động đến dư luận xã hội ở Việt Nam hiện nay
-
2
Vai trò của cấp ủy cơ sở tại tỉnh Điện Biên trong thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021-2025: thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng
-
3
Quảng bá di sản văn hóa phi vật thể trên các kênh truyền thông số: Đặc trưng và những yêu cầu đặt ra
-
4
Giải pháp nâng cao chất lượng thông tin về chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào dân tộc thiểu số trên báo mạng điện tử ở Việt Nam hiên nay
-
5
Tăng cường quản lý công chức cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh ở Đông Nam Bộ hiện nay
-
6
Nhân sinh quan Phật giáo với việc xây dựng lối sống cho học sinh trung học phổ thông ở Việt Nam hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Tăng cường nguồn lực tài chính cho chuyển đổi xanh ở Việt Nam
Trong bối cảnh toàn cầu đang đối mặt với những thách thức ngày càng nghiêm trọng từ biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên và ô nhiễm môi trường, chuyển đổi xanh đã trở thành xu thế phát triển tất yếu, được nhiều quốc gia lựa chọn nhằm hướng tới tăng trưởng, phát triển bền vững, bao trùm và bảo vệ môi trường sinh thái. Tại Việt Nam, Đảng và Nhà nước xác định rõ phát triển xanh là một trong những định hướng chiến lược trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2030 và thể hiện cam kết mạnh mẽ qua việc tham gia các sáng kiến toàn cầu. Để thực hiện thành công chuyển đổi xanh, một trong các yếu tố then chốt là phải bảo đảm nguồn lực tài chính đủ, ổn định và hiệu quả. Tài chính không chỉ là điều kiện vật chất để triển khai các chương trình, dự án xanh, mà còn là công cụ định hướng hành vi kinh tế - xã hội, nâng cao năng lực quản trị môi trường và thúc đẩy đổi mới sáng tạo xanh. Trong khi nhu cầu tài chính cho chuyển đổi xanh ngày càng gia tăng, khả năng huy động và sử dụng nguồn lực tại Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, đặt ra yêu cầu cần có những giải pháp nhằm tăng cường nguồn lực tài chính phục vụ mục tiêu phát triển xanh, bền vững trong thời gian tới.
Ngoại giao văn hóa Nhật Bản thông qua Manga và Anime trong quảng bá Thế vận hội Olympic Tokyo 2020 và một số gợi mở thực tiễn đối với Việt Nam
Ngoại giao văn hóa Nhật Bản thông qua Manga và Anime trong quảng bá Thế vận hội Olympic Tokyo 2020 và một số gợi mở thực tiễn đối với Việt Nam
Ngoại giao văn hóa là hình thức sử dụng quyền lực mềm để quốc gia mở rộng ảnh hưởng. Ngày nay, hoạt động này càng hiệu quả nhờ các phương tiện đa dạng. Anime và manga của Nhật Bản đã lan rộng toàn cầu, thu hút đông đảo người hâm mộ, góp phần thúc đẩy sự thấu hiểu và chia sẻ giá trị chung. Việc sử dụng chín nhân vật manga nổi tiếng cùng sự hợp tác với các hãng anime để quảng bá Thế vận hội giúp Nhật Bản lan tỏa tinh thần thể thao và tạo nên mối quan hệ cộng sinh tích cực. Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu ngoại giao văn hóa của Nhật Bản qua anime và manga trong quảng bá Thế vận hội Tokyo 2020, đồng thời đưa ra gợi ý về việc ứng dụng công cụ văn hóa trong ngoại giao và thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau qua thể thao.
Ứng dụng câu lệnh điều khiển AI trong hoạt động giảng dạy của giảng viên: Thực trạng và giải pháp
Ứng dụng câu lệnh điều khiển AI trong hoạt động giảng dạy của giảng viên: Thực trạng và giải pháp
Bài viết phân tích kỹ năng sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) của giảng viên trong hoạt động giảng dạy, tập trung vào kỹ năng xây dựng câu lệnh điều khiển AI (Prompt Engineering), đồng thời làm rõ thêm tầm quan trọng của việc làm chủ các lệnh (prompt) này trong các hoạt động: tìm kiếm tài liệu, xây dựng học liệu số, đánh giá kết quả bài giảng. Thông qua thực tiễn giảng dạy trong lĩnh vực lý luận chính trị, báo chí truyền thông, bài báo đề xuất các cấu trúc prompt từ cơ bản đến mở rộng, gợi mở một số ví dụ áp dụng trong quá trình giảng dạy, đồng thời, đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả ứng dụng AI vào hoạt động giảng dạy ở các cơ sở giáo dục đại học.
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thông tin về sách giáo khoa trên báo mạng điện tử Việt Nam
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thông tin về sách giáo khoa trên báo mạng điện tử Việt Nam
Lịch sử phát triển sách giáo khoa giáo dục phổ thông Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn cải cách quan trọng, gắn với các mốc thay sách vào các năm: 1957, 1981, 2002, 2020(1). Mới đây, cuối tháng 8 năm 2025, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 71 về việc rà soát thực hiện chương trình giáo dục phổ thông, đảm bảo cung cấp một bộ sách giáo khoa thống nhất toàn quốc. Trước đó, thời điểm Chương trình giáo dục phổ thông 2018 được ban hành, đã tạo nên những thay đổi lớn đối với nền giáo dục nước nhà, đồng thời đặt ra nhiều thách thức trong công tác quản lý và truyền thông về sách giáo khoa. Trước những biến động về chính sách giáo dục, báo chí Việt Nam có trách nhiệm truyền tải thông tin một cách đầy đủ, chính xác và khách quan, nhằm giúp công chúng nắm bắt được chủ trương của Đảng, đường lối của Nhà nước về vấn đề sách giáo khoa. Trên cơ sở đó, bài viết này tập trung phân tích thực trạng quản lý thông tin về sách giáo khoa trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay, chỉ ra những vấn đề còn tồn tại và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thông tin ở lĩnh vực này.
Năng lực ngôn ngữ và vai trò của năng lực ngôn ngữ đối với sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Năng lực ngôn ngữ và vai trò của năng lực ngôn ngữ đối với sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng và tiện lợi nhất. Nhưng để giao tiếp có hiệu quả phải cần đến năng lực ngôn ngữ (NLNN). Trong xã hội phát triển như hiện nay, việc mở rộng phạm vi, loại hình, không gian, cách thức giao tiếp là tất yếu, theo đó NLNN càng trở nên quan trọng. Do vậy, việc phát triển NLNN cần phải trở thành điều kiện tiên quyết, nhất là đối với sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền (Học viện BC&TT). Bài này nói về vai trò của NLNN đối với sinh viên của Học viện trong hoạt động tác nghiệp.
Bình luận