Lý Công Uẩn người khai sinh Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội
Lý Công Uẩn sinh năm Giáp Tuất (974) tại làng Cổ Pháp, lộ Bắc Giang (nay là làng Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh). Truyền thuyết kể lại rằng, có người con gái tên là Phạm Thị Ngà thường đi làm thuê ở chùa ứng Thiên làng Cổ Pháp, hàng ngày gánh nước, tưới cây, giữ vườn... Một đêm bà đun bếp thì nhà sư trụ trì chùa bước qua chạm phải chân, sau đó bà thụ thai. Nhà sư sợ mang tiếng với thiên hạ nên bảo bà đi chùa khác làm thuê. Bà đi đến chùa Gia Châu ở gần đó thì trời sắp tối nên xin ở lại ngủ nhờ. Nhà sư trụ trì chùa này đêm trước nằm mơ thấy Long Thần báo mộng rằng: “Ngày mai dọn chùa cho sạch, có Hoàng đế đến”. Tỉnh dậy, nhà sư sai chú tiểu quét dọn sạch sẽ, túc trực từ sáng đến chiều, nhưng chỉ thấy một người đàn bà có mang tới xin ở nhờ. Sau đó bỗng có chuyện lạ. Một đêm trời bỗng nổi mưa gió ầm ầm, khu tam quan của chùa bỗng sáng rực hẳn lên, hương thơm ngào ngạt lan toả. Nhà sư cùng mọi người vội ra xem thì thấy người đàn bà đã sinh một cậu con trai, mặt mũi khôi ngô, tuấn tú, hai bàn tay có 4 chữ “Sơn hà xã tắc”. Được 3 năm bà Phạm Thị Ngà bế con đến chùa Cổ Pháp. Nhà sư trụ trì chùa Cổ Pháp là Lý Khánh Văn. Bà Phạm Thị Ngà để con trai lại cho nhà sư làm con nuôi, rồi bà đi đến đồi Mả Báng thì bị bạo bệnh rồi chết. Xác bà mối đùn lên thành mả. Người đi đường thấy lạ hỏi, thì nghe trên trời có lời đáp: “Mả mẹ đẻ vua Lý đấy!”
Nhà sư Lý Khánh Văn nuôi đứa trẻ rất tận tình, chu đáo, đặt tên cho cậu là Lý Công Uẩn. Khi cậu được khoảng 7 tuổi lại được sư Vạn Hạnh trụ trì chùa Lạc Tổ (gần chùa Cổ Pháp) dạy học. Lý Công Uẩn học hành rất chăm chỉ và tài giỏi, không ai bì kịp.
Người đàn bà họ Phạm đã có một cặp mắt thật tinh đời. Gửi con vào nhà chùa là chỗ yên thân, chọn được người để gửi gắm và nuôi dưỡng con, người mẹ cũng yên tâm về sau con mình sẽ được học tập giáo lý Phật giáo - thời đó là quốc giáo. Hai nhà sư Lý Khánh Văn và Vạn Hạnh bằng tài năng và trách nhiệm, uy tín và sự tận tâm đã chăm lo nuôi dạy Lý Công Uẩn nên người và thành đạt.
Lý Công Uẩn lớn lên tỏ rõ có chí lớn khác thường. Ông đến Hoa Lư làm quan nhà Tiền Lê đến chức Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ. Khi vua Lê Đại Hành băng hà, triều đình lục đục, các con chém giết nhau để tranh giành ngôi báu. Cuối cùng Lê Long Đĩnh thắng thế lên ngôi. Long Đĩnh tàn bạo, hiếu sắc lại ham mê tửu sắc nên bị bệnh nặng phải nằm để coi triều nên sử cũ gọi là Lê Ngọa Triều.
Cả một xã hội hỗn loạn, đau khổ đang cần có người giải thoát. Người đó đối lập với bạo tàn phải có cái nhân; đối lập với ăn chơi xa xỉ phải có cái giản; đối lập với u muội, ươn hèn phải có cái trí. ở Lý Công Uẩn hội tụ cả ba tiêu chuẩn trên! Uy đức của Lý Công Uẩn lớn đến nỗi vua bạo tàn là Lê Long Đĩnh cũng phải vì nể. Long Đĩnh giết Lê Long Việt để cướp ngôi, quần thần đều chạy trốn, duy chỉ có Điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn ôm xác chết mà khóc. Thế mà kẻ giết vua vẫn không dám trừng phạt, lại vẫn khen là người trung, cho làm Tứ Sương quân phó chỉ huy(1).
Lê Long Đĩnh mất ngày 29 tháng 10 năm Kỷ Dậu, khi đó Lý Công Uẩn đã 35 tuổi và đang chỉ huy quân Túc vệ trong chốn cung cấm. Bấy giờ lòng người đã oán giận nhà Lê nên Chi hậu Đào Cam Mộc, sư Vạn Hạnh cùng các quan trong triều đã suy tôn Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế, sau này gọi là vua Lý Thái Tổ.
Từ trước tới nay, các tài liệu sử sách đều cho rằng ngày Lý Công Uẩn lên ngôi là ngày 15 tháng 3 (âm lịch) năm Kỷ Dậu. Nhưng một vài tài liệu nghiên cứu gần đây đẫ nêu lên một thời gian khác: đó là ngày mồng 2 tháng 11 năm Kỷ Dậu (21.11.1009)(2).
Việc thay đổi triều đại của Lý Công Uẩn không đơn thuần là thay thế một vương triều mà là thay thế cả một thiết chế chính trị xã hội, đáp ứng được yêu cầu phát triển của lịch sử dân tộc. Sự kiện ngẫu nhiên này là phản ánh cái tất yếu lịch sử đến đây phải xảy ra, không thể sớm hơn, nhưng cũng không thể muộn hơn.
Sau khi lên làm vua, năm 1010, Lý Công Uẩn viết Chiếu dời đô và quyết định dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La. Khi thuyền chở vua đến bến sông Hồng, có dải mây màu đỏ bay trên lưng trời nên mới có truyền thuyết về “Rồng bay lên”, và nhà vua đã đổi tên nơi đây thành Thăng Long.
Chiếu dời đô chỉ có 214 chữ, nhưng là một bài chính luận gọn gàng, sắc sảo, bộc lộ tầm nhìn chiến lược của một nhà lãnh đạo có ý thức về sự trưởng thành và phát triển của đất nước. Trong phần mở đầu của Chiếu dời đô, Lý Công Uẩn viết: “Xưa nhà Thương đến đời vua Bàn Canh năm lần dời đô; nhà Chu đến đời vua Thành Vương cũng ba lần dời đô. Phải đâu các vua thời Tam Đại theo ý riêng của mình mà tự tiện chuyển dời? Chỉ vì muốn đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu; trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu thấy thuận tiện thì thay đổi. Cho nên vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh...”. Dời đô để “mưu toan nghiệp lớn... cho nên vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh...” chứ không phải để tranh bá đồ vương, cho nên được các sử gia xưa đánh giá là “dời đô yên dân”. Chỉ 4 chữ, nhưng ý nghĩa vô cùng lớn lao. Yên dân là phải phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho dân, vì “Vua lấy dân làm trời” nhưng “dân lấy ăn làm trời”!
Chiếu dời đô cũng đã trách hai triều đại Đinh, Lê: “... Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng của mình, khinh thường mệnh trời... cứ đóng yên đô thành ở nơi đây khiến cho triều đại không được lâu bền, số phận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tổn, muôn vật không thích nghi”. Và coi đó là nguyên nhân khiến “Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không dời đổi”.
Những lời chê trách đó có phần đúng vì các triều đại Ngô, Đinh, Lê chỉ là những thủ lĩnh có cách nhìn và đánh giá thiên về phòng thủ quân sự; nhưng cũng có phần không đúng vì nhãn quan chính trị cũng như trình độ phát triển kinh tế - xã hội phải đến lúc chín muồi mới có thể dời đô chứ không phải muốn dời đô lúc nào cũng được.
Đến thời Lý Công Uẩn, những yêu cầu đó đã hội đủ và chính ông đã được lịch sử giao cho sứ mệnh vinh quang đó. Đổi mới đế đô để có được một đế đô tồn tại lâu dài như Thăng Long của Lý Công Uẩn, đưa đến đổi mới xã hội Việt Nam, là một thành công to lớn trong quá trình dựng nước và giữ nước. Hơn nữa, ngoài ý nghĩa chính trị trọng đại, nó còn có ý nghĩa kinh tế sâu sắc: khi kinh tế đã phát triển đòi hỏi phải có một thị trường dân tộc thống nhất lấy đế đô làm trung tâm. Nhưng Hoa Lư không đáp ứng được yêu cầu đó vì chỉ có địa thế núi sông hiểm trở, thích hợp với một vị trí phòng thủ lợi hại về quân sự. Còn Thăng Long ở giữa vùng đồng bằng, với vị trí trung tâm đất nước và những điều kiện giao thông thuỷ bộ thuận tiện, mới có thể trở thành trung tâm chính trị, kinh tế và văn hoá của một quốc gia độc lập, hùng cường: “Thành Đại La, Kinh đô cũ của Cao Vương ở vào nơi trung tâm trời đất; được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi Nam Bắc Đông Tây; lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu khốn khổ ngập lụt; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi. Xem khắp đất Việt ta, chỉ nơi này là thắng địa. Thật là chốn hội tụ trọng yếu của bốn phương đất nước; cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”. Trong đoạn cuối của Chiếu dời đô, nhà Vua đặt câu hỏi: “Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?”. Và câu trả lời của các quan cũng là câu trả lời của toàn dân nước Việt: “Bệ hạ vì thiên hạ lập kế lâu dài, trên cho nghiệp đế được thịnh vượng, dưới cho dân chúng được đông đúc giàu có, điều lợi như thế, ai dám không theo”(3).
Là Chiếu dời đô, nhưng nội dung và tầm bao quát của nó không chỉ là “dời đô”, đó là một tuyên ngôn Tuyên ngôn đổi mới, đổi mới triều đại, đổi mới xã hội, đổi mới cả trong tư duy chính trị lẫn kinh tế, đánh dấu sự phát triển và một giai đoạn mới trong lịch sử dân tộc.
Trong hành trình gần trọn thiên niên niên kỷ của mình, đã có lúc Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội mất vai trò thủ đô. Lần thứ nhất, Hồ Quý Ly dời đô vào Thanh Hoá xây dựng Tây Đô (thế kỷ XV); lần thứ hai, nhà Nguyễn thế kỷ XIX dời đô vào Huế (1802 - 1945). Nhưng những nơi đó chỉ đóng vai trò kinh đô trong một thời gian ngắn, thậm chí rất ngắn. Còn Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội với hình ảnh “Rồng bay lên” đẹp đẽ và kiêu hãnh, tượng trưng cho ý chí vươn lên của dân tộc vẫn trường tồn, là thủ đô duy nhất và mãi mãi của Việt Nam. Lịch sử đã chứng minh sự nghiệp đổi mới có một không hai này của Lý Công Uẩn là hoàn toàn đúng đắn./.
______________________________
Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền số tháng 1+2.2005
(1) Văn Tạo, Lý Công Uẩn - Đổi mới triều đại, đổi mới đế đô, đổi mới xã hội, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 1.1995, tr.43.
(2) Xem thêm: Chu Quang Trứ, Xung quanh nhân vật Lý Công Uẩn, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 5.1994, tr.57 - 65.
(3) Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học Xã hội, H. 1993, T1, tr.241.
Vũ Trường Giang
Bài liên quan
- Cán bộ nữ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trước yêu cầu thay đổi: Tâm thế và khả năng thích nghi
- Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện chính sách nhà ở xã hội - Thực trạng và giải pháp
- Giải pháp tăng cường vai trò lãnh đạo của Tỉnh ủy Phú Thọ trong phát triển kinh tế hiện nay
- Thực trạng trải nghiệm định kiến giới của nữ sinh viên Hà Nội và một số khuyến nghị
- Đầu tư cơ sở vật chất tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong giai đoạn hiện nay
Xem nhiều
-
1
Quảng bá di sản văn hóa phi vật thể trên các kênh truyền thông số: Đặc trưng và những yêu cầu đặt ra
-
2
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thông tin về sách giáo khoa trên báo mạng điện tử Việt Nam
-
3
Phát triển lực lượng sản xuất chất lượng mới ở Việt Nam hướng tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa
-
4
Tăng cường nguồn lực tài chính cho chuyển đổi xanh ở Việt Nam
-
5
Diễn ngôn truyền thông về “Vành đai, Con đường”: So sánh giữa Trung Quốc và Đông Nam Á
-
6
Xây dựng đội ngũ tình nguyện viên tại Trung tâm Thông tin khoa học - Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong công tác xử lý tài liệu hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Quảng bá di sản văn hóa phi vật thể trên các kênh truyền thông số: Đặc trưng và những yêu cầu đặt ra
Quảng bá di sản văn hoá phi vật thể (DSVHPVT) là hoạt động truyền thông của các tổ chức văn hóa, cơ quan báo chí truyền thông và cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa… nhằm giới thiệu vẻ đẹp, giá trị của các DSVHPVT đến đông đảo công chúng, từ đó, góp phần nâng cao nhận thức về DSVHPVT, thúc đẩy trách nhiệm gìn giữ, phát huy giá trị di sản ở mỗi tổ chức, cá nhân. Trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, các tổ chức văn hóa, cơ quan báo chí truyền thông đang tận dụng các kênh truyền thông số trong quảng bá di sản. Để thực hiện thành công hoạt động này, các chủ thể truyền thông bắt buộc phải nhận diện rõ đặc thù quảng bá của kênh truyền thông số, xác định rõ những nội dung, hình thức, quy trình và các tiêu chí quảng bá phù hợp.
Cán bộ nữ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trước yêu cầu thay đổi: Tâm thế và khả năng thích nghi
Cán bộ nữ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trước yêu cầu thay đổi: Tâm thế và khả năng thích nghi
Trong bối cảnh đất nước đang bước vào giai đoạn phát triển mới với nhiều thay đổi mang tính căn bản và toàn diện, hệ thống Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cũng đang triển khai mạnh mẽ quá trình chuyển đổi nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và quản trị tổ chức. Quá trình này diễn ra ở nhiều chiều cạnh: từ cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động, văn hóa làm việc đến yêu cầu về năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ. Trong đó, đội ngũ nữ cán bộ, giảng viên, người lao động của Học viện giữ vai trò đặc biệt quan trọng, không chỉ là lực lượng nòng cốt trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn mà còn là những chủ thể tích cực tham gia kiến tạo môi trường làm việc đổi mới, nhân văn và phát triển bền vững. Trước yêu cầu thay đổi nhanh chóng, việc xây dựng tâm thế chủ động, nâng cao năng lực thích nghi và khả năng cân bằng của nữ cán bộ trở thành yếu tố then chốt, góp phần khẳng định vị thế của phụ nữ Học viện trong tiến trình chuyển đổi, đồng thời tạo nền tảng cho sự phát triển ổn định, lâu dài của đơn vị.
Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện chính sách nhà ở xã hội - Thực trạng và giải pháp
Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện chính sách nhà ở xã hội - Thực trạng và giải pháp
Trong quá trình đô thị hóa nhanh và áp lực dân số gia tăng, Thành phố Hồ Chí Minh đang đối mặt với một bài toán phức tạp: làm sao để đảm bảo chỗ ở phù hợp cho người dân, đặc biệt là các nhóm thu nhập thấp. Trong bối cảnh đó, tổ chức thực hiện chính sách nhà ở xã hội không chỉ là một nhiệm vụ hành chính đơn thuần, mà đã trở thành một sứ mệnh chiến lược, có ảnh hưởng sâu sắc đến mục tiêu phát triển đô thị bền vững, ổn định thị trường bất động sản và nâng cao chất lượng sống toàn diện. Trong khuôn khổ bài viết tập trung làm rõ những phương thức thực hiện cụ thể của chính quyền thành phố trong việc thực hiện mục tiêu này và đưa ra một số kiến nghị để nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách trong thời gian tới.
Giải pháp tăng cường vai trò lãnh đạo của Tỉnh ủy Phú Thọ trong phát triển kinh tế hiện nay
Giải pháp tăng cường vai trò lãnh đạo của Tỉnh ủy Phú Thọ trong phát triển kinh tế hiện nay
Phát triển kinh tế là một trong những nội dung then chốt, đột phá chiến lược luôn được Tỉnh ủy Phú Thọ chú trọng trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo. Trên cơ sở đó, bức tranh kinh tế của tỉnh đã có nhiều khởi sắc đáng kể, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những khó khăn nhất định, đòi hỏi cần có hệ thống giải pháp phù hợp và hiệu quả để kịp thời tháo gỡ, thúc đẩy phát triển bền vững.
Thực trạng trải nghiệm định kiến giới của nữ sinh viên Hà Nội và một số khuyến nghị
Thực trạng trải nghiệm định kiến giới của nữ sinh viên Hà Nội và một số khuyến nghị
Bài viết trình bày kết quả nghiên cứu thực trạng trải nghiệm định kiến giới của nữ sinh viên Hà Nội trên cơ sở kết quả nghiên cứu chọn mẫu với cỡ mẫu là 468 sinh viên thuộc 3 trường Đại học tại Hà Nội (Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Giao thông vận tải, Học viện Báo chí Tuyên truyền). Kết quả nghiên cứu cho thấy, sinh viên nữ vẫn thường xuyên đối mặt với định kiến giới trong các môi trường khác nhau, trong đó, định kiến giới trên môi trường mạng xã hội (MXH) là phổ biến nhất, tiếp đến là môi trường sống, môi trường học đường, truyền thông đại chúng. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc cần phải tiếp tục có giải pháp phù hợp dần xoá bỏ định kiến giới trong các môi trường xã hội, đặc biệt môi trường MXH.
Bình luận