Nâng cao hiệu quả giao tiếp của người dẫn chương trình truyền hình với khán giả
Để làm tốt công việc, MC truyền hình, ngoài việc nắm vững kiến thức chuyên môn và tinh thông ngôn ngữ, còn phải am tường các vấn đề giao tiếp, tâm lý giao tiếp, cũng như các kỹ năng sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng trong tác nghiệp. Bài viết này đề cập một số yếu tố chi phối cùng một số giải pháp đề xuất để nâng cao hiệu quả giao tiếp của MC truyền hình với công chúng.
Người dẫn chương trình truyền hình và vấn đề giao tiếp trên truyền hình
Người dẫn chương trình và MC là hai thuật ngữ đồng nghĩa. MC là viết tắt của tiếng Anh trong cụm từ Master of Ceremony (chủ nhân của các buổi lễ). Theo định nghĩa của các từ điển tiếng Anh, MC là: “Người giới thiệu khách hoặc những người cung cấp dịch vụ giải trí vào một dịp trang trọng.” (Oxford Learner’s Dictionary).
“Người đóng vai trò là người dẫn chương trình cho một sự kiện, đặc biệt là giới thiệu diễn giả và người biểu diễn tại một bữa tiệc hoặc chương trình phát sóng.” (Dictionary.com).
Từ các định nghĩa trên, người dẫn chương trình truyền hình (viết tắt là MCTH) được hiểu là người làm công việc dẫn chương trình trong môi trường rất đặc thù tại các đài truyền hình trung ương hoặc địa phương. MCTH thường tác nghiệp ở các trường quay hoặc sân khấu, nơi sự kiện diễn ra, dưới tác động của máy quay, ê-kip làm việc, ánh sáng, âm thanh v.v.. cùng với người nghe là khán giả và các khách mời tham gia sự kiện.
Trong một chương trình hay sự kiện mà MC tham gia với tư cách là người điều hành, nhìn chung, cuộc giao tiếp thường có hai nhân vật: người nói (speaker) và người nghe (hearer). Người nói là MC và người nghe là những người tham gia sự kiện, chương trình. Tuy nhiên, trong một sự kiện cụ thể của MCTH, có thể các vai giao tiếp phức tạp hơn nhiều. Chẳng hạn, trong một game show truyền hình, sẽ có MCTH (speaker), các giám khảo (guests) và người chơi (participants) và khán giả (audience).
Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả giao tiếp
Trước hết phải xác định các nhân tố của giao tiếp nói chung, bên cạnh những nhân tố đặc thù của nghề nghiệp MCTH nói riêng. Vấn đề nghiên cứu ở đây hoàn toàn có thể tiếp cận từ lý thuyết truyền thông và các lý thuyết về báo chí học liên quan. Các nhà nghiên cứu về truyền thông từ xưa tới nay đã đưa ra nhiều mô hình truyền thông khác nhau. Mô hình truyền thông đầu tiên, của Claude E. Shannon và Warren Weaver (1949), khá đơn giản và dễ hiểu. Hai tác giả trên đã chỉ ra 5 yếu tố cấu thành một cuộc truyền thông/giao tiếp như sau:
- Nguồn thông tin: tạo ra thông điệp
- Máy phát, mã hóa thông điệp thành tín hiệu
- Kênh: nơi tín hiệu được truyền qua và cũng là nguồn nhiễu tạp
- Máy thu: giải mã (cấu trúc lại) thông điệp từ tín hiệu
- Điểm đến: nơi nhận thông điệp
Các mô hình sau đó kế thừa và phát triển mô hình trên, càng ngày càng phức tạp và đầy đủ hơn. Mô hình của Philip Kotler (1967) là một trong số các mô hình phản ánh được khá đầy đủ bản chất của quá trình truyền thông/ giao tiếp. Theo đó, có 9 yếu tố tham gia vào quá trình này: Người phát (Sender), Mã hóa (Encoding), Thông điệp (Message), Phương tiện (Media), Giải mã (Decoding), Người nhận (Receiver), Nhiễu tạp (Noise), Phản ứng (Response), Phản hồi (Feedback).
Các yếu tố thành phần của quá trình truyền thông nói trên cũng chính là những nhân tố ảnh hưởng đến và quyết định hiệu quả của một cuộc truyền thông/giao tiếp nói chung và cuộc giao tiếp của MCTH nói riêng. Ngoài những nhân tố chung chi phối cuộc giao tiếp nói trên, còn có các nhân tố đặc thù của nghề nghiệp MC chi phối hiệu quả của cuộc giao tiếp của MC với công chúng khán giả, nói riêng.
Theo Lý thuyết truyền thông, xét theo tiêu chí kênh, có 4 hình thức giao tiếp khác nhau: bằng lời nói (verbal), bằng văn bản (text, writing), bằng hình ảnh (visual) và không lời (non-verbal) hay ngôn ngữ cơ thể (body language). Xét theo tiêu chí độ trang trọng, có thể chia giao tiếp thành 2 loại khác là chính thức (formal) và không chính thức (informal).
Giao tiếp của MCTH với khán giả ở đây, xét theo tiêu chí kênh giao tiếp, là giao tiếp bằng lời, kết hợp với phi lời (ngôn ngữ cơ thể). Còn nếu xét theo phong cách hay độ trang trọng, ngôn ngữ giao tiếp trên là sự pha trộn giữa chính thức và không chính thức: MC thường chủ yếu dùng ngôn ngữ chuẩn mực để giao tiếp với khán giả, tuy nhiên, MC vẫn có thể xen lẫn những câu pha trò hay nói đùa để đưa đẩy, hâm nóng cuộc tương tác trong sự kiện.
Theo tác giả Đỗ Thị Thu Hằng (2015), trong giao tiếp báo chí, giữa nhà báo với nhân vật/ công chúng, cần chú ý tới phương tiện giao tiếp và bối cảnh giao tiếp. Còn theo tác giả Trần Hoàng Thái trong bài viết Văn hóa giao tiếp người dẫn chương trình truyền hình, MCTH cần sử dụng tốt 3 loại phương tiện giao tiếp sau để trở thành một MC tiêu chuẩn: Ngôn ngữ nói: Ngôn ngữ nói là hệ thống âm thanh, từ ngữ cùng các quy tắc kết cấu chúng trong giao tiếp xã hội, là phương tiện giao tiếp chủ yếu của người dẫn chương trình với khán giả. Cận ngôn ngữ (para language): Cận ngôn ngữ bao gồm: ngữ điệu, tiết tấu và âm sắc. Sự kết hợp giữa ngữ điệu, tiết tấu và âm sắc làm cho ngôn ngữ nói tạo nên sắc thái biểu cảm mà ngôn ngữ viết không thể biểu thị được. Phi ngôn ngữ: Là những hoạt động của cơ thể bao gồm: đi; đứng; ngồi, nét mặt, ánh mắt, nụ cười; cử chỉ, điệu bộ và động tác tay.
Như vậy, căn cứ theo đặc thù nghề nghiệp và ngôn ngữ của MCTH, dưới tác động của các nhân tố giao tiếp chung, các nhân tố riêng chi phối hiệu quả giao tiếp của MCTH với người nghe/công chúng trong sự kiện truyền hình có thể được rút ra như sau:
Về mặt chủ quan/ cá nhân, các yếu tố cần được xét đến bao gồm: Ngoại hình và trang phục, lời nói/ khả năng nói, khả năng diễn tả bằng ngôn ngữ cử chỉ và cận ngôn ngữ, năng khiếu dẫn chuyện, khiếu hài hước, tài ứng xử, ứng biến, vốn kiến thức nền và chuyên ngành và cuối cùng là văn hóa ứng xử và văn hóa giao tiếp. Trong khi đó, về mặt khách quan/ ngoại cảnh, chủ yếu ở đây nhân tố tác động là môi trường giao tiếp: gồm có vấn đề các thiết bị ánh sáng, âm thanh, sân khấu; vấn đề thời tiết, nhiệt độ v.v..
Vấn đề đặt ra và một số giải pháp
Trong thực tế đời sống, mức độ thành công một chương trình truyền hình trực tiếp với MC, cũng chính là hiệu quả giao tiếp của MCTH với công chúng khán giả, phụ thuộc rất nhiều vào các nhân tố chủ quan từ chính MCTH và các yếu tố ngoại cảnh/ khách quan khác. MCTH là nghề đòi hỏi tiêu chuẩn khá cao. Do vậy, vẫn còn những bất cập cần khắc phục trong khi tác nghiệp.
Theo tác giả Lê Thị Như Quỳnh (2015), dựa trên việc khảo sát các chương trình của Đài Truyền hình TPHCM (HTV) và Đài Truyền hình Việt Nam (VTV) trong 3 năm từ 2010-2013, MCTH thường mắc các lỗi như lỗi ngôn ngữ, lỗi giao tiếp.
Về lỗi ngôn ngữ, có thể xét thấy lỗi phát âm, bao gồm: nói quá nhanh hoặc nuốt âm; nói vấp, nói nhịu; lỗi dùng từ: dùng từ ngữ khó hiểu, bóng bẩy, cầu kì nhưng không rõ nghĩa hoặc thiếu chính xác; dùng từ ngữ khoa trương quá mức; lỗi đặt câu: Câu quá dài nên bị bỏ lửng; lỗi diễn đạt: dài dòng, rối rắm; Lạm dụng khẩu ngữ; Dùng văn Tây; Lúng túng trong việc dùng từ hô khởi đầu câu. Về lỗi giao tiếp, MCTH cần khắc phục lỗi xưng hô: không phù hợp hoặc quá nhấn mạnh yếu tố tuổi tác; lỗi phát ngôn: nói thừa thãi, lệch trọng tâm, nói hớ; lỗi điều hành: diễn đạt không đúng, đặt câu hỏi không phù hợp; lỗi cách thức hội thoại: nói quá nhiều hoặc nói hấp tấp; lỗi kiến thức: sai kiến thức nền và chuyên ngành; lỗi ngôn ngữ hình thể: ngôn ngữ cơ thể không phù hợp hoặc lạm dụng chúng.
Ngoài các bất cập đã được chỉ ra trong nghiên cứu trên, qua thực tế quan sát, có thể thấy, một số MC còn mắc các lỗi như: lỗi cận ngôn: giọng nói chua, nhấn nhá trọng âm chưa phù hợp với sắc thái cần có và ngữ điệu thiếu biểu cảm; lỗi dẫn chương trình: nói lan man, dài dòng, sa đà vào những chi tiết vụn vặt.
Bên cạnh những yếu tố chủ quan, MCTH có thể gặp phải một số các yếu tố khách quan khác, ảnh hưởng tới quá trình dẫn chương trình, tác nghiệp. Ví dụ như vấn đề về cơ sở vật chất, thiết bị: sân khấu, âm thanh, ánh sáng, micro không bảo đảm, ảnh hưởng tới chất lượng tác nghiệp của MCTH; vấn đề về môi trường, thời tiết không thuận lợi trong những chương trình tác nghiệp ngoài trời. Cuối cùng, yếu tố con người, cụ thể là khán giả, khách mời hay ê-kip thực hiện cũng chính là yếu tố quan trọng, có tác động không nhỏ tới sự thành công của MCTH trong bất cứ chương trình nào, đặc biệt là những chương trình đòi hỏi tính tương tác cao giữa người dẫn chương trình và những nhân vật khác.
Để khắc phục những lỗi và bất cập trên, có thể đề xuất một số giải pháp sau:
Thứ nhất, về phía cá nhân, MCTH cần được đào tạo bài bản và tập huấn, nâng cao nghiệp vụ hàng năm. Trong đó, trọng tâm là nâng cao khả năng thực hành ngôn ngữ tiếng Việt, về tất cả các bình diện liên quan tới nghề nghiệp như: phát âm, dùng từ, đặt câu, diễn đạt, đặc biệt là khả năng thuyết trình và hùng biện trước công chúng. Bên cạnh đó, MC cũng cần nâng cao khả năng giao tiếp của mình cùng với việc củng cố, bổ sung các kiến thức chuyên ngành sâu và kiến thức nền cần thiết cho lĩnh vực mà mình phụ trách.
Thêm vào đó, văn hóa ứng xử và văn hóa giao tiếp của MC cũng cần thường xuyên được trau dồi, học hỏi để không ngừng nâng cao, đạt tầm chuẩn mực. Sự thành công của MC phần lớn phụ thuộc vào lòng say mê nghề nghiệp, ý chí tự học để vươn lên, không chỉ trông chờ vào việc đào tạo tập trung của cơ quan/ tổ chức chủ quản.
Thứ hai, về phía cơ quan truyền hình cần xây dựng lộ trình đào tạo cập nhật và nâng cao nghiệp vụ hàng năm cho MCTH nói riêng cũng như các bộ phận chuyên ngành khác nói chung. Ê-kip làm chương trình trực tiếp cùng MCTH phải chủ động đề xuất với cơ quan chủ quản chuẩn bị đầy đủ vật tư, thiết bị chuyên dụng để có được một môi trường tác nghiệp tốt nhất, tránh các lỗi kỹ thuật không đáng có khi tác nghiệp, làm ảnh hưởng tới chất lượng và hiệu quả chương trình nói chung và giao tiếp của MCTH nói riêng./.
_____________________________
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Kotler, Ph. (1967) Marketing management: Analysis, planning and control, Englewood Cliffs, NJ, USA: Prentice Hall.
2. Schramm, W. (1954), The Process and Effects of Mass Communication, University of Illinois Press.
3. Shannon, C. E. & Weaver, W. (1949/1964), The Mathematical Theory of Communication, University of Illiois Press.
4. Negative factors affecting communications; https:// www.citeman.com/6836-negative-factors-affecting-communications.html 5. What is a Master of Ceremonies? ttps://www.humorthatworks.com/how-to/the-job-of-an-mc/
6. Vũ Quang Hào (2001) Ngôn ngữ báo chí, NXB ĐHQG Hà Nội.
7. Đỗ Thị Thu Hằng (2015), Giáo trình Tâm lý học Báo chí; Nxb ĐHQG TP. Hồ Chí Minh.
8. Kotler, Ph. (2000), Những nguyên lý tiếp thị, tập 2, Nxb Thống kê, Hà Nội.
9. Lê Thị Như Quỳnh (2015), Lỗi ngôn ngữ và giao tiếp của người dẫn chương trình truyền hình, Ngôn ngữ & Đời sống, số 4.
10. Lê Thị Như Quỳnh (2017) Một số đặc điểm của lời dẫn chương trình truyền hình, TC Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHSP TP. HCM, Tập 14, số 2; tr.30-39.
11. Trần Hoàng Thái, Văn hóa giao tiếp người dẫn chương trình truyền hình, http://quanlyvanhoa.hcmuc. edu.vn/van-hoa-giao-tiep-nguoi-dan-chuong-trinhtruyen-hinh.html
12. Tìm hiểu về nghề MC và những kỹ năng của người dẫn chương trình; https://abv.edu.vn/tim-hieu-ve-nghemc-nguoi-dan-chuong-trinh-va-nhung-ky-nang-cuanguoi-mc.html.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Người Làm Báo điện tử ngày 16.6.2021
Bài liên quan
- Từ tác nghiệp thủ công đến làm báo chí số
- Xây dựng môi trường làm việc văn minh, thân thiện cho giảng viên trong văn hóa trường Đảng
- Vai trò của lòng biết ơn trong truyền thông giáo dục tại các trường học: Từ góc độ lý thuyết
- Ngoại giao văn hóa Nhật Bản thông qua Manga và Anime trong quảng bá Thế vận hội Olympic Tokyo 2020 và một số gợi mở thực tiễn đối với Việt Nam
- Ứng dụng câu lệnh điều khiển AI trong hoạt động giảng dạy của giảng viên: Thực trạng và giải pháp
Xem nhiều
-
1
Phim Tài liệu: Video Khoa xây dựng Đảng 50 năm Xây dựng và Phát triển
-
2
Xây dựng khung đạo đức và quản trị trí tuệ nhân tạo (AI) trong truyền thông chính sách tại Việt Nam
-
3
Nâng cao năng lực số cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã trong mô hình chính quyền địa phương hai cấp ở Việt Nam hiện nay
-
4
Các xu hướng sáng tạo nội dung truyền thông marketing hiện nay
-
5
Xử lý khủng hoảng của doanh nghiệp sản xuất và phân phối thực phẩm chế biến sẵn tại Việt Nam
-
6
Nâng cao chất lượng hoạt động của Đảng ủy phường Yên Bái, tỉnh Lào Cai hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Quản trị hoạt động truyền thông thương hiệu bệnh viện công trong bối cảnh chuyển đổi số
Trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ, các bệnh viện công (BVC) tại Việt Nam phải đối mặt với những thách thức đặc thù trong quản trị hoạt động truyền thông thương hiệu (TTTH). Hoạt động này không chỉ nhằm mục đích quảng bá mà còn là công cụ chiến lược để xây dựng niềm tin xã hội và thực thi sứ mệnh y tế cộng đồng. Sử dụng Bệnh viện Nhi Trung ương (BVNTW) làm trường hợp nghiên cứu điển hình, bài viết phân tích thực trạng quản trị hoạt động TTTH trên các phương tiện truyền thông số thông qua khảo sát thực tiễn và phỏng vấn chuyên sâu. Kết quả nghiên cứu cho thấy, BVNTW đạt được sự cam kết chiến lược mạnh mẽ từ ban lãnh đạo và độ tin cậy cao từ công chúng. Tuy nhiên, nghiên cứu cũng chỉ ra những mâu thuẫn mang tính hệ thống. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một hệ thống giải pháp chiến lược, bao gồm việc xây dựng khung đo lường hiệu suất đa tầng, tối ưu hóa quy trình theo mức độ rủi ro và quản trị trải nghiệm thương hiệu đồng bộ, nhằm nâng cao hiệu quả quản trị TTTH tại các bệnh viện công.
Từ tác nghiệp thủ công đến làm báo chí số
Từ tác nghiệp thủ công đến làm báo chí số
Sự phát triển vượt bậc của công nghệ số, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo (AI), đang làm thay đổi sâu sắc hoạt động báo chí hiện đại. Từ những phương thức tác nghiệp thủ công dựa trên máy đánh chữ và máy ảnh phim, báo chí đã chuyển mình sang môi trường số hóa toàn diện, nơi AI tham gia vào nhiều công đoạn như thu thập, xử lý, sản xuất và phân phối tin tức.
Xây dựng môi trường làm việc văn minh, thân thiện cho giảng viên trong văn hóa trường Đảng
Xây dựng môi trường làm việc văn minh, thân thiện cho giảng viên trong văn hóa trường Đảng
Xây dựng môi trường làm việc văn minh, thân thiện là một trong những yếu tố nền tảng của văn hóa trường Đảng, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy, nghiên cứu và đào tạo cán bộ lý luận chính trị. Bài báo phân tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm kiến tạo không gian làm việc tích cực, nhân văn và chuẩn mực cho đội ngũ giảng viên tại các cơ sở đào tạo lý luận chính trị trong giai đoạn hiện nay.
Vai trò của lòng biết ơn trong truyền thông giáo dục tại các trường học: Từ góc độ lý thuyết
Vai trò của lòng biết ơn trong truyền thông giáo dục tại các trường học: Từ góc độ lý thuyết
Bài viết phân tích vai trò của lòng biết ơn trong việc nâng cao chất lượng truyền thông giáo dục thông qua cải thiện mối quan hệ giữa các bên liên quan. Khác biệt với những yếu tố tâm lý truyền thống như sự hài lòng hay lòng tin, lòng biết ơn sở hữu đặc tính độc đáo là khả năng thúc đẩy hành vi đáp lại tích cực từ người nhận. Trong bối cảnh giáo dục, lòng biết ơn đóng vai trò như chất xúc tác mạnh mẽ giúp biến đổi những mối quan hệ giao dịch thông thường thành các mối quan hệ cộng đồng bền vững. Không những vậy, truyền thông giáo dục với những đặc trưng riêng biệt đã một lần nữa cho thấy vai trò quan trọng của lòng biết ơn thông qua việc giúp tăng cường cảm giác gắn kết với nhà trường, khuyến khích hành vi đáp lại từ phụ huynh, và tạo ra hiệu ứng lan tỏa trong toàn bộ cộng đồng học đường.
Ngoại giao văn hóa Nhật Bản thông qua Manga và Anime trong quảng bá Thế vận hội Olympic Tokyo 2020 và một số gợi mở thực tiễn đối với Việt Nam
Ngoại giao văn hóa Nhật Bản thông qua Manga và Anime trong quảng bá Thế vận hội Olympic Tokyo 2020 và một số gợi mở thực tiễn đối với Việt Nam
Ngoại giao văn hóa là hình thức sử dụng quyền lực mềm để quốc gia mở rộng ảnh hưởng. Ngày nay, hoạt động này càng hiệu quả nhờ các phương tiện đa dạng. Anime và manga của Nhật Bản đã lan rộng toàn cầu, thu hút đông đảo người hâm mộ, góp phần thúc đẩy sự thấu hiểu và chia sẻ giá trị chung. Việc sử dụng chín nhân vật manga nổi tiếng cùng sự hợp tác với các hãng anime để quảng bá Thế vận hội giúp Nhật Bản lan tỏa tinh thần thể thao và tạo nên mối quan hệ cộng sinh tích cực. Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu ngoại giao văn hóa của Nhật Bản qua anime và manga trong quảng bá Thế vận hội Tokyo 2020, đồng thời đưa ra gợi ý về việc ứng dụng công cụ văn hóa trong ngoại giao và thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau qua thể thao.
llcttt1994dientu@gmail.com
024.38348033
Bình luận