Năng lực ngôn ngữ và vai trò của năng lực ngôn ngữ đối với sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền
1. Năng lực ngôn ngữ
Theo Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên định nghĩa: năng lực là “ 1. Khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó; 2. Phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao”. Như vậy, dù với nghĩa (1) hay (2) thì nói về năng lực trước hết là nói đến “khả năng”(1).
Bàn về NLNN, năm 1965, Noam Chomsky(2) đã phân biệt “năng lực” và “hành vi” ngôn ngữ. Theo Chomsky, NLNN (ngữ năng) là một sự tiềm tàng tri thức và kỹ năng ngôn ngữ ở con người và chúng chỉ được thể hiện bằng sự thực thi ngôn ngữ (ngữ thi) qua hoạt động giao tiếp, tức qua hành vi ngôn ngữ (nói và/hoặc viết). Đến 1970, Campbell & Wales(3);1972 Hymes(4) đã mở rộng khái niệm năng lực của Chomsky với việc tích hợp hai thành tố là kiến thức ngôn ngữ tiềm ẩn và các quy tắc ngữ pháp (trong đó, các quy tắc ngữ pháp là yếu tố tất yếu được thể hiện ra) với năng lực ngôn ngữ xã hội. Sự “hợp nhất” này được gọi chung là trong thuật ngữ năng lực giao tiếp. Sau này, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ đồng quan điểm nói đến NLNN cũng có nghĩa là nói đến năng lực giao tiếp.
Từ góc độ thực tiễn, tác giả Nguyễn Trọng Hoàn cho rằng: “năng lực ngôn ngữ là một năng lực tổng hợp trên cơ sở những biểu hiện của bốn yếu tố đọc, viết, nghe, nói cấu thành”(5).Tuy nhiên, để quá trình tiếp nhận (đọc, nghe) và quá trình thực thi ngôn ngữ (nói, viết) phải cần đến tri thức ngôn ngữ và khả năng áp dụng tri thức này thành diễn đạt phù hợp với tình huống giao tiếp (nói hoặc viết).
Thực thi ngôn ngữ giúp phân biệt người có khả năng tốt trong giao tiếp bằng ngôn ngữ và những người không có khả năng giao tiếp, tức là thấy được ngữ năng của người đó. Sự phân biệt này được đánh giá trên nhiều tiêu chí, nhưng cốt lõi là sự đối chiếu mối quan hệ giữa nội dung được nói/ viết ra và việc dùng lời để thể hiện nội dung đó. Nếu việc dùng lời - vỏ ngôn ngữ thể hiện tốt nội dung muốn nói/ viết ra, đó là người có NLNN. Ví dụ: người có NLNN trong giảng dạy nhưng không có NLNN trong nghiên cứu khoa học (bởi họ chỉ dùng lời tốt trong giảng dạy (nói) mà không tốt trong các bài viết khoa học); nhà văn, nhà báo, diễn giả, người làm truyền thông… được đánh giá là những người có NLNN vào loại tốt nhất trong tình huống dùng lời nói trong bối cảnh cần sử dụng ngôn ngữ nói.
NLNN là tên gọi khái quát, chung nhất để nói đến khả năng vận dụng về ngôn ngữ. Năng lực này được chia thành những năng lực cụ thể với các tiêu chí khác nhau. Có nhiều quan điểm đánh giá năng lực ngôn ngữ. Tuy nhiên, có thể căn cứ vào các bình diện sau đây của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ để đánh giá NLNN:
+ Căn cứ vào hình thức giao tiếp: NLNN trong hình thức giao tiếp bằng ngôn ngữ nói và bằng ngôn ngữ viết
+ Căn cứ vào phạm vi, môi trường, lĩnh vực giao tiếp: NLNN trong giao tiếp đời thường và giao tiếp công vụ.
+ Căn cứ vào nội dung đề tài, phong cách chức năng giao tiếp: NLNN trong các lĩnh vực cụ thể như khoa học, văn học - nghệ thuật; hành chính - công vụ; báo chí truyền thông…
Tuy nhiên, dù phân chia theo tiêu chí nào, với ngôn ngữ, NLNN cần được thể hiện thông qua việc tạo được lời (câu/ văn bản nói ra/ viết ra) đúng nhất, phù dễ hiểu nhất điều muốn nói (nội dung) để đạt được hiệu quả trong những tình huống giao tiếp nhất định.
2. Vai trò của NLNN đối với sinh viên Học viện BC&TT
2.1. Vận dụng NLNN trong việc thực hành sáng tạo tác phẩm báo chí, góp phần lan toả cách sử dụng tiếng Việt chuẩn mực
Phát triển NLNN là yêu cầu cần yếu đối với sinh viên ngành báo chí, bởi các em sẽ là những phóng viên tương lai. Trong quá trình học tập, NLNN được vận dụng để thực hiện các bài tập thực hành báo chí. Không kể đến các bài tập thực hành của từng môn học trong chuyên ngành, bài viết này chỉ đề cập đến loại bài thực hành trong thời gian kiến tập (01 tháng) và thực tập (02 tháng) của sinh viên báo chí để đánh giá NLNN của họ. Trong thời gian kiến tập, thực tập, sinh viên báo chí phải thực hành (tác nghiệp) viết báo; kết quả của bài báo được đánh giá thông qua việc sử dụng ngôn ngữ bằng thực tế bài báo của sinh viên phải được sử dụng trên các kênh báo chí. Thực tế cho thấy, khi sinh viên, nhất là sinh viên năm thứ ba đi kiến tập, các em chưa đủ trải nghiệm xã hội và chưa được trang bị đầy đủ kiến thức chuyên ngành, nhưng kết quả kiến tập đã cho thấy NLNN của sinh viên bởi 100% sinh viên đạt yêu cầu về số lượng bài báo. Nhiều em còn vượt yêu cầu về số lượng bài dành cho sinh viên kiến tập, thực tập. Trong lịch sử đào tạo của Khoa Phát thanh - Truyền hình và Viện Báo chí, không có sinh viên không đạt yêu cầu kiến tập, thực tập. Điều đó chứng tỏ sinh viên đã thể hiện được NLNN trong việc sáng tạo tác phẩm báo chí trong thời gian tập thực hành nghề nghiệp.
Bên cạnh đó, Học viện BC&TT có những kênh báo chí mang tính thực hành nghề dành cho khối báo chí: sinh viên báo chí có ba kênh thực hành nghề, đó là kênh Sóng Trẻ và các chương trình phát thanh (khoa Phát thanh - truyền hình); tờ báo in Tạp chí Trẻ (Viện Báo chí); kênh Youtube Mạch Nguồn. Trên ba kênh báo chí này, sinh viên báo chí đã tỏ rõ NLNN của mình trong các tác phẩm ở ba loại hình báo chí: báo phát thanh, báo in, báo đa phương tiện. Chỉ xét riêng kênh Youtube Mạch Nguồn, cho đến thời điểm này, đã có 27 số được phát sóng. Các số đã thể hiện được sự trẻ trung, hiện đại và có tính thời sự khi phản ánh được phong phú các khía cạnh của đời sống xã hội theo phong cách đặc trưng của sinh viên Học viện BC&TT. Trừ kênh Mạch Nguồn là kênh mới nhất (hơn 1 năm), còn lại, tờ Báo chí Trẻ và Sóng Trẻ đã có tuổi đời hơn 10 năm. Như vậy, nếu không có đủ NLNN thì sinh viên báo chí không thể duy trì hai kênh báo chí này với thời gian dài như vậy.
Để sáng tạo được tác phẩm báo chí, sinh viên phải vận dụng tốt kiến thức và kỹ năng sử dụng ngôn ngữ, với những quy tắc về ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa tiếng Việt theo phong cách chức năng báo chí. Tác phẩm báo chí đến với công chúng sẽ tiếp tục bồi đắp cách sử dụng đúng quy tắc tiếng Việt. Đó là một trong những cách thiết thực bảo vệ, gìn giữ tiếng nói dân tộc.
Khảo sát 10 số phát thanh chương trình Sóng Trẻ, người viết nhận thấy 100% các số phát sóng được khảo sát đã sử dụng từ ngữ phù hợp về phong cách chức năng, không sử dụng các từ ngữ khẩu ngữ là tiếng lóng của giới trẻ, vốn đang được dùng phổ biến trong xã hội hiện nay. Những từ ngữ, cách nói lệch chuẩn không được sử dụng trong chương trình phát thanh - vốn cho phép sử dụng nhiều lối nói khẩu ngữ hơn các loại hình báo chí khác. Điều đó thể hiện sự biết chọn dùng từ ngữ có ý thức của ê kíp sản xuất chương trình, từ đó đã hạn chế được sự “phát tán”, lan truyền những từ ngữ chưa hay, chưa chuẩn. Khảo sát 05 số ngẫu nhiên (số 11,17, 23, 26, 27) kênh Mạch Nguồn, cũng cho thấy kết quả tương tự. Các lớp từ vựng cơ bản được sử dụng đúng với quy tắc tiếng Việt, không xuất hiện các từ ngữ lạ, các kết hợp khác thường (kiểu như “Vì một Việt Nam tử tế”, “hưởng ứng ngày tiết kiệm điện Việt Nam”…), không xuất hiện hiện tượng chêm xen không có quy tắc tiếng nước ngoài với những từ ngữ nước ngoài đã trở nên thông dụng như: online, apply, talk show, card visid, combo, vaccine, delay, level, show, book, handmade, come back, like…
Không chỉ sử dụng đúng quy tắc, sinh viên còn có cách sử dụng hay, sáng tạo trong việc tạo ra những kết hợp hay, giàu hình ảnh, những biện pháp tu từ độc đáo. Điều đó đóng góp một phần quan trọng trong việc tạo nên ảnh hưởng tích cực trong việc sáng tạo về cách dùng tiếng Việt. Lấy ví dụ trên kênh Mạch Nguồn để thấy rõ điều đó:
Nhóm tác giả đã sử dụng các từ ngữ giàu hình ảnh để đặt tên của các số sau đây: Người lái đò của thời đại mới; Mùa xuân về xưởng in báo Nhân Dân; Làng Cờ Từ Vân - nơi thổi hồn cho những lá cờ dịp Tết; Từ trái tim cuộc đời …Đây là các tên dùng biện pháp ẩn dụ hoặc sử dụng từ ngữ gợi sự liên tưởng, hoặc tạo ra được những biểu tượng đẹp (Mùa xuân về, Người lái đò của thời đại mới).
Những số Mạch Nguồn được xây dựng từ các tên có nghĩa trực tiếp cũng thể hiện NLNN khi đặt tên chương trình theo cách tường minh cũng là đỉnh cao của cách sử dụng ngôn từ, ví dụ như các tên: Những cánh thư từ miền biên viễn; Hồn Then Bắc Kạn; Nữ trí thức trong cuộc sống hôm nay; Ứng xử trên mạng xã hội của trí thức trẻ…Đây là tên chương trình đi thẳng vào vấn đề, cho thấy rõ độ “nóng”, tính thời sự của chủ đề mà sinh viên đã tìm thấy, “bắt” được và triển khai từ ý tưởng thành một chương trình hấp dẫn, đặc sắc. Việc sử dụng tiếng Việt như vậy đã góp phần bảo vệ, lan toả cái hay của tiếng Việt bởi người sử dụng có NLNN.
2.2. Vai trò của NLNN trong việc góp phần xây dựng phong cách sinh viên Học viện BC&TT
Theo Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên(6), phong cách được định nghĩa như sau: “những lối, những cung cách sinh hoạt, làm việc, hoạt động, xử sự tạo nên cái riêng của một người hay một loại người nào đó (nói tổng quát), vd: phong cách quân nhân” - theo Từ điển tiếng Việt thông dụng (Nguyễn Như Ý chủ biên)(7). Hoặc “Phong cách (gaint, carriage style, method dt): vẻ riêng trong lối sống, làm việc của một người hoặc hạng người nào đó. Vd: phong cách sống, phong cách quân nhân”. Hai định nghĩa cùng chung quan niệm phong cách là “vẻ riêng”(8), “cái riêng”(9). Từ đây, có thể hiểu phong cách của một ngôi trường, đó là “cái riêng”, “vẻ riêng” của ngôi trường đó. Vậy phong cách của Học viện BC&TT là cái riêng tạo nên sự khác biệt của Học viện BC&TT và các học viện khác.
Có nhiều yếu tố tạo thành cái riêng của Học viện BC&TT. Tuy nhiên, có một yếu tố không thể không nói đến, đó là phong cách giao tiếp của sinh viên Học viện BC&TT. Có thể nhận thấy sinh viên Học viện BC&TT có phong cách giao tiếp riêng bởi các em có NLNN tốt, thể hiện ở những đặc điểm riêng sau đây:
+ Ứng xử bằng ngôn ngữ linh hoạt: sự linh hoạt trong lời ăn tiếng nói luôn đi kèm với sự linh hoạt trong hành động. Sự nhanh nhạy trong hành động ngôn từ khi ứng xử đối với những tình huống không dự đoán trước là ưu thế trong cách xử lý của sinh viên Học viện BC&TT.
+ Sử dụng ngôn ngữ giao tiếp chính xác, rõ ràng, mạch lạc. Khảo sát sinh viên Học viện BC&TT, sẽ thấy sự nói năng lưu loát, tự tin, mạnh dạn của sinh viên, bởi các em có vốn ngôn từ để thể hiện được điều nói ra và cái tôi bản thân, rõ nhất là trong các tình huống như trao đổi, tranh luận, biện giải, thuyết minh, trình bày là đặc điểm nổi trội của sinh viên Học viện BC&TT. Với sinh viên khối lý luận chính trị, các em có kiểu điềm tĩnh - tự tin trình bày suy nghĩ, tranh luận về những cách nhìn, cách nghĩ về chính trị, xã hội một cách có cơ sở chắc chắn. Ngược lại, sinh viên ngành báo chí có khả năng “bắt” vấn đề và diễn đạt lại một cách sắc sảo, ấn tượng và chính xác. Qua kênh Mạch Nguồn, nếu như NLNN phong phú cũng như sự biểu đạt ngôn ngữ sắc sảo, thì sự thể hiện năng lực ấy của sinh viên khối lý luận lại có độ chắc chắn và tư duy khái quát tốt.
+ Sinh viên Học viện BC&TT luôn thể hiện sự năng động, dám nghĩ khác đi, không đi theo lối mòn. Số nữ sinh Học viện BC&TT tham gia các cuộc thi sắc đẹp và vào sâu hoặc đạt giải cao trong các cuộc thi, vượt qua vòng trả lời phỏng vấn đại diện cho những thế hệ sinh viên Học viện BC&TT dám nghĩ khác và nói ra điều khác đó của mình.
+ Đặc điểm cuối cùng, cũng là đặc điểm nổi trội của sinh viên Học viện BC&TT, đó là “tính đảng” được thấm nhuần trong suy nghĩ của các em. So với sinh viên các trường khác, sinh viên Học viện BC&TT tuy cởi mở, “thoáng” trong cách nghĩ nhưng hoàn toàn không “chệch” định hướng về tư tưởng chính trị của Đảng và Nhà nước. Các em có phản xạ nhạy cảm và nhanh hơn sinh viên các trường khác khi trao đổi về các vấn đề chính trị, đường lối, chính sách; phát hiện nhanh sự “gài” “cài cắm” những ẩn ý nhằm gieo rắc suy nghĩ bất lợi về chế độ trong tư tưởng sinh viên; cao hơn, các em có sự đối đáp, lập luận phản bác lại những ẩn ý xấu, tiêu cực; biết cách bảo vệ suy nghĩ, tư tưởng của bản thân, không để “vi khuẩn” độc hại xâm chiếm tư duy, cách nghĩ.
Phong cách giao tiếp riêng của sinh viên Học viện BC&TT cho thấy các em là một nhóm xã hội khác biệt với kiểu tư duy riêng. Đó là nhóm có tư duy nhạy bén về các vấn đề chính trị - xã hội đồng thời các em có ý thức bảo vệ chế độ, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước bằng khả năng quan sát xã hội được kết hợp với NLNN - khả năng giao tiếp tốt, cho thấy sự sắc bén của các em.
Tóm lại, năng lực ngôn ngữ là khả năng tích lũy tri thức và kỹ năng ngôn ngữ ở dạng tiềm tàng; đồng thời, vốn tri thức này luôn được sử dụng/ thực thi trong giao tiếp và qua giao tiếp mà đáp ứng được mục tiêu, nhu cầu truyền tải nội dung tư tưởng trong những hoàn cảnh, hình thức giao tiếp nhất định. Đối với sinh viên Học viện BC&TT, việc rèn luyện để có NLNN phong phú là điều cần yếu.
NLNN tốt có vai trò trọng yếu trong việc giúp sinh viên góp phần lan toả cách sử dụng đúng và chuẩn tiếng Việt mà biểu hiện cụ thể và sinh động, thiết thực nhất là sinh viên Học viện BC&TT với NLNN đã thực hiện các sản phẩm báo chí trên các kênh báo in, báo phát thanh, báo truyền hình trong thời gian qua.
Bên cạnh đó, NLNN còn góp phần xây dựng phong cách sinh viên Học viện BC&TT. Đó là sự ứng xử bằng ngôn ngữ linh hoạt, sử dụng ngôn ngữ giao tiếp rõ ràng, mạch lạc, chính xác; thể hiện được sự năng động, dám nghĩ dám làm; thấm nhuần tư tưởng, đường lối chính sách của Đảng./.
______________________________________________________
(1), (6), (9) Hoàng Phê (chủ biên) (2003), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển học, Nxb. Đà Nẵng.
(2) Chomsky, N. (1965), Aspects of the Theory of Syntax. Cambridge Mass. MIT Press.
(3) Campbell, R. and R. Wales. 1970. 'The study of language acquisition'. In J. Lyons, ed. New horizons in linguistics. Harmondsworth: Penguin Books. Canale, M., R. Mougeon, and E. Beniak. 1978. 'Acquisition of some grammatical.
(4) Hymes, D. (1972) On Communicative Competence. ed. J B. Pride and Holmes, H. Sociolinguistics. N.Y. Penguin. [12] Canale, M. & Swain, L. Nguyễn Trọng Hoàn (2020).
(5) Nguyễn Trọng Hoàn (2020), "Dạy học Ngữ văn theo định hướng năng lực" https://dangcongsan.vn/y-te/day-hoc-ngu-van-theo-dinh-huong-nang-luc Thứ hai, 03/02/2020 11:59 (GMT+7) (1980) “Theoretical.
(7), (8) Nguyễn Như Ý (Chủ biên), Nguyễn Văn Khang, Nguyễn Kim Thành (1996), Từ điển tiếng Việt thông dụng, Nxb. Giáo dục, H.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông số 6/ 2023
Bài liên quan
- Xây dựng môi trường làm việc văn minh, thân thiện cho giảng viên trong văn hóa trường Đảng
- Vai trò của lòng biết ơn trong truyền thông giáo dục tại các trường học: Từ góc độ lý thuyết
- Ngoại giao văn hóa Nhật Bản thông qua Manga và Anime trong quảng bá Thế vận hội Olympic Tokyo 2020 và một số gợi mở thực tiễn đối với Việt Nam
- Ứng dụng câu lệnh điều khiển AI trong hoạt động giảng dạy của giảng viên: Thực trạng và giải pháp
- Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thông tin về sách giáo khoa trên báo mạng điện tử Việt Nam
Xem nhiều
-
1
Quảng bá di sản văn hóa phi vật thể trên các kênh truyền thông số: Đặc trưng và những yêu cầu đặt ra
-
2
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thông tin về sách giáo khoa trên báo mạng điện tử Việt Nam
-
3
Phát triển lực lượng sản xuất chất lượng mới ở Việt Nam hướng tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa
-
4
Tăng cường nguồn lực tài chính cho chuyển đổi xanh ở Việt Nam
-
5
Diễn ngôn truyền thông về “Vành đai, Con đường”: So sánh giữa Trung Quốc và Đông Nam Á
-
6
Xây dựng đội ngũ tình nguyện viên tại Trung tâm Thông tin khoa học - Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong công tác xử lý tài liệu hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Một số vấn đề lý luận về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh có ý nghĩa to lớn trong việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện. Tư tưởng của Bác là kim chỉ nam cho hành động, đề cao tinh thần yêu nước, độc lập, tự cường, là cơ sở, tiền đề để mỗi đảng bộ nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, xây dựng tổ chức trong sạch, vững mạnh, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Bài viết làm rõ một số vấn đề lý luận về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh như khái niệm, nội dung, phương thức và vai trò cốt lõi.
Xây dựng môi trường làm việc văn minh, thân thiện cho giảng viên trong văn hóa trường Đảng
Xây dựng môi trường làm việc văn minh, thân thiện cho giảng viên trong văn hóa trường Đảng
Xây dựng môi trường làm việc văn minh, thân thiện là một trong những yếu tố nền tảng của văn hóa trường Đảng, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy, nghiên cứu và đào tạo cán bộ lý luận chính trị. Bài báo phân tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm kiến tạo không gian làm việc tích cực, nhân văn và chuẩn mực cho đội ngũ giảng viên tại các cơ sở đào tạo lý luận chính trị trong giai đoạn hiện nay.
Vai trò của lòng biết ơn trong truyền thông giáo dục tại các trường học: Từ góc độ lý thuyết
Vai trò của lòng biết ơn trong truyền thông giáo dục tại các trường học: Từ góc độ lý thuyết
Bài viết phân tích vai trò của lòng biết ơn trong việc nâng cao chất lượng truyền thông giáo dục thông qua cải thiện mối quan hệ giữa các bên liên quan. Khác biệt với những yếu tố tâm lý truyền thống như sự hài lòng hay lòng tin, lòng biết ơn sở hữu đặc tính độc đáo là khả năng thúc đẩy hành vi đáp lại tích cực từ người nhận. Trong bối cảnh giáo dục, lòng biết ơn đóng vai trò như chất xúc tác mạnh mẽ giúp biến đổi những mối quan hệ giao dịch thông thường thành các mối quan hệ cộng đồng bền vững. Không những vậy, truyền thông giáo dục với những đặc trưng riêng biệt đã một lần nữa cho thấy vai trò quan trọng của lòng biết ơn thông qua việc giúp tăng cường cảm giác gắn kết với nhà trường, khuyến khích hành vi đáp lại từ phụ huynh, và tạo ra hiệu ứng lan tỏa trong toàn bộ cộng đồng học đường.
Ngoại giao văn hóa Nhật Bản thông qua Manga và Anime trong quảng bá Thế vận hội Olympic Tokyo 2020 và một số gợi mở thực tiễn đối với Việt Nam
Ngoại giao văn hóa Nhật Bản thông qua Manga và Anime trong quảng bá Thế vận hội Olympic Tokyo 2020 và một số gợi mở thực tiễn đối với Việt Nam
Ngoại giao văn hóa là hình thức sử dụng quyền lực mềm để quốc gia mở rộng ảnh hưởng. Ngày nay, hoạt động này càng hiệu quả nhờ các phương tiện đa dạng. Anime và manga của Nhật Bản đã lan rộng toàn cầu, thu hút đông đảo người hâm mộ, góp phần thúc đẩy sự thấu hiểu và chia sẻ giá trị chung. Việc sử dụng chín nhân vật manga nổi tiếng cùng sự hợp tác với các hãng anime để quảng bá Thế vận hội giúp Nhật Bản lan tỏa tinh thần thể thao và tạo nên mối quan hệ cộng sinh tích cực. Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu ngoại giao văn hóa của Nhật Bản qua anime và manga trong quảng bá Thế vận hội Tokyo 2020, đồng thời đưa ra gợi ý về việc ứng dụng công cụ văn hóa trong ngoại giao và thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau qua thể thao.
Ứng dụng câu lệnh điều khiển AI trong hoạt động giảng dạy của giảng viên: Thực trạng và giải pháp
Ứng dụng câu lệnh điều khiển AI trong hoạt động giảng dạy của giảng viên: Thực trạng và giải pháp
Bài viết phân tích kỹ năng sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) của giảng viên trong hoạt động giảng dạy, tập trung vào kỹ năng xây dựng câu lệnh điều khiển AI (Prompt Engineering), đồng thời làm rõ thêm tầm quan trọng của việc làm chủ các lệnh (prompt) này trong các hoạt động: tìm kiếm tài liệu, xây dựng học liệu số, đánh giá kết quả bài giảng. Thông qua thực tiễn giảng dạy trong lĩnh vực lý luận chính trị, báo chí truyền thông, bài báo đề xuất các cấu trúc prompt từ cơ bản đến mở rộng, gợi mở một số ví dụ áp dụng trong quá trình giảng dạy, đồng thời, đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả ứng dụng AI vào hoạt động giảng dạy ở các cơ sở giáo dục đại học.
llcttt1994dientu@gmail.com
024.38348033
Bình luận