Nâng cao kiến thức và kỹ năng làm báo về dân số và phát triển cho sinh viên báo chí
Michael Pertschusk đã có lần nhận xét: "Người làm truyền thông về dân số và phát triển có nhiệm vụ quan trọng là: phải biết được tin hay và biết cách giới thiệu về nó; phải biết biến một sự việc không hấp dẫn thành một tin có giá trị" (Báo cáo dân số, số 42, tháng 11.1995, trang 19). Theo cách hiểu này, mỗi phóng viên sáng tạo ra các tác phẩm báo chí (như: tin, phóng sự, bình luận...), ngoài khả năng thiên bẩm thì còn phải học cách làm báo, học và tích luỹ các kiến thức về dân số và phát triển.
Nhiều năm qua, Phân viện Báo chí và Tuyên truyền đã đưa vào chương trình đào tạo cử nhân báo chí môn học Dân số và Phát triển, nhằm trang bị cho các nhà báo tương lai những kiến thức cơ bản về lĩnh vực này. Tuy nhiên, với số giờ lên lớp ít ỏi, chưa kịp thẩm thấu để biến thành tri thức, thành máu thịt của mình thì đã bị kiến thức của môn học khác "đè" lên, buộc người học phải "quên ngay" để tiếp thu kiến thức mới. Sẽ là "không may" cho sinh viên nào đó vừa ra trường đã được làm báo chuyên theo dõi về lĩnh vực dân số và phát triển, phải tác nghiệp ngay. Chắc chắn những bài báo ban đầu đó sẽ không tránh khỏi thiếu sót về nội dung hoặc "non nớt" về nghiệp vụ.
Chính vì vậy, việc nâng cao kiến thức và kỹ năng sáng tạo tác phẩm báo chí về lĩnh vực dân số và phát triển cho sinh viên báo chí ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường là một việc làm cần thiết. Trong bài báo này, chúng tôi chỉ muốn đề cập đến vài khía cạnh nhỏ trong một vấn đề lớn mà không đi sâu vào những vấn đề thuộc về chuyên môn sâu ngoài phạm vi báo chí.
Thứ nhất, việc trang bị những kiến thức dân số và phát triển không chỉ đơn thuần là kiến thức cụ thể như: các biện pháp tránh thai, bình đẳng giới, quan hệ tình dục sớm ở tuổi vị thành niên có hại như thế nào?... Những kiến thức đó rất có ích cho sinh viên trong cuộc sống nhưng cho sáng tạo tác phẩm báo chí thì lại không được là bao. Vấn đề là: họ cần những kiến thức công cụ giúp họ tư duy, sử dụng nó như một "hệ quy chiếu" để "soi" vào thực tiễn, đánh giá thực tiễn và rút ra kết luận trong quá trình tác nghiệp. Họ cần được trang bị một cách có hệ thống ngay từ trong trường học và sẽ được bổ sung dần qua năm tháng. Theo tôi, những kiến thức cần được trang bị kỹ lưỡng đó là:
- Chính sách dân số của Đảng và Nhà nước,
- Chiến lược phát triển dân số, kế hoạch hoá gia đình trong từng giai đoạn,
- Thực trạng dân số và phát triển của nước ta và thế giới qua từng thời kỳ (cả tích cực và tiêu cực),
Những kiến thức này vô cùng quan trọng đối với nhà báo tương lai. Cho dù phương tiện truyền thông nào đi nữa (báo in, phát thanh, truyền hình hay báo mạng điện tử) thì mọi thông điệp về dân số và phát triển đều phải phản ánh mục tiêu của Đảng và Nhà nước và chủ đề tuyên truyền chủ yếu, tổng quát của cơ quan báo chí. Ngoài ra, cũng cần trang bị kiến thức chọn mẫu, nghiên cứu đối tượng, phương pháp tiếp cận đối tượng... giúp cho việc đi thực tế của sinh viên báo chí sau này có hiệu quả hơn.
Thứ hai, kỹ năng tác nghiệp báo chí về dân số và phát triển:
Hầu hết các học phần về sáng tạo tác phẩm báo chí theo thể loại (như tin, phóng sự, điều tra, bình luận...) đều đã được giảng dạy lồng ghép nội dung dân số và phát triển. Mặt khác, các dự án của Phân viện Báo chí và Tuyên truyền cũng tổ chức các lớp bồi dưỡng ngắn ngày hoặc dài ngày nhằm nâng cao sự hiểu biết của sinh viên báo chí về lĩnh vực này. Tuy nhiên, nội dung đào tạo vẫn mang tính chất dàn trải, chưa thực sự hiệu quả. Có lẽ, do chưa có một chương trình thống nhất để thực hiện giảng dạy lồng ghép về dân số và phát triển cho các khoa Báo chí và Phát thanh - Truyền hình. Hơn nữa, khi giảng dạy chuyên đề Báo chí với dân số và phát triển thì chỉ chú trọng Báo chí với trẻ em chứ chưa bao quát những nội dung khác và cũng chưa thực sự chú trọng đến kỹ năng riêng biệt khó thực hiện loại đề tài này. Để khắc phục tình trạng trên, cần phải có một chương trình thống nhất, quy chuẩn, có giáo trình và các loại sách tham khảo tương ứng. Mặt khác, các kỹ năng tác nghiệp cũng chỉ nên tập trung vào các khâu cơ bản như: chọn thông điệp; khai thác nguồn tin; kỹ năng thể hiện. Những gì sinh viên có thể tự đào tạo được thì không cần phải giảng dạy trên lớp. Phương pháp vẫn là sinh viên thực hành theo nhóm dưới sự chỉ đạo của giảng viên. Xin tạm nêu một vài nét chính là:
+ Chọn thông điệp cho tác phẩm báo chí:
Ngày nay, công chúng báo chí luôn phải lựa chọn giữa rất nhiều thông tin, các hình thức giải trí khác nhau. Vì lý do này mà một tin về dân số có thể mất vị trí trên trang nhất của tờ báo. Nếu muốn thu hút được công chúng nhiều nhất thì phải có được câu chuyện hấp dẫn. Như vậy, một thông điệp như thế nào được coi là thú vị và hấp dẫn? Các giờ học trên lớp, giảng viên cần hướng dẫn cho sinh viên thực hành tìm tòi trong cuộc sống thực tiễn những thông điệp hấp dẫn theo những tiêu chí cơ bản đã được các nhà báo đúc kết qua nhiều thời gian. Theo M.Lyle Spencer (Nguyên trưởng khoa báo chí, đại học Oa Sinh Tơn) đã đưa ra một khái niệm: "Thông điệp tốt là bất kỳ một sự kiện, ý tưởng hoặc quan điểm nào đúng lúc, hấp dẫn hay ảnh hưởng tới một số đông người trong cộng đồng và công chúng có thể hiểu". Trên thực tế, những tin tức được coi là hấp dẫn thường bao gồm ít nhất hoặc một vài, trong số những yếu tố sau: mới; nóng hổi; quan trọng; thú vị và chúng thường liên quan tới các xu hướng chính trị của một quốc gia, tới các nhân vật quan trọng, tới các xung đột, tới những gì không bình thường, bất ổn, bất ngờ và đầy kịch tính.
Ví dụ: "Khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi còn nhiều bất cập" là một thông điệp vừa mang tính nóng hổi, vừa chứa đựng những kịch tính bên trong, vừa gần gũi với mọi gia đình có trẻ em dưới 6 tuổi nên được rất nhiều người quan tâm trong thời gian qua.
+ Kỹ năng khai thác thông tin:
Cách tốt nhất để thu thập thông tin cho bài báo về dân số của mình là sinh viên hãy đọc, xem, nghe tất cả những gì có liên quan đến thông điệp đã chọn.
- Sưu tập và phân tích tất cả các bài báo: Bằng cách thường xuyên cắt báo để lấy thông tin trong một khoảng thời gian nhiều tháng, ta sẽ có một bộ sưu tập về chủ đề dân số và kế hoạch hoá gia đình, về sức khỏe cộng đồng hoặc những chủ đề hấp dẫn khác. Bằng việc phân tích những bài báo đã được cắt ra này, ta có thể biết: ai đưa tin về kế hoạch hoá gia đình, những đề tài nào xuất hiện nhiều nhất, tầm quan trọng của mỗi bài báo, tại sao chúng lại xuất hiện. Trải qua năm tháng, những thông điệp đó sẽ giúp cho ta có cái nhìn tổng quát hơn về vấn đề dân số - kế hoạch hoá gia đình.
- Lập danh sách những người cần phải gặp gỡ để hỏi, phỏng vấn chính thức cho thông điệp của mình đang theo đuổi. Một danh sách các địa chỉ, số điện thoại của các mối liên lạc chủ yếu, cách thức liên lạc, ảnh chân dung cá nhân, các văn bản khác ...
Đây là cách tốt nhất để chuẩn bị cho bài báo của mình và cũng là cách nạp thêm kiến thức cho mình hàng ngày. Khoảng 3 tháng hoặc 6 tháng nên kiểm tra lại các đầu mối thông tin xem có thay đổi gì không. Sinh viên cần tạo được thói quen này khi còn ở trường.
+ Kỹ năng thể hiện: Dù tin bài về dân số hay về bất cứ chủ đề nào thì cách viết cũng phải bảo đảm được các yếu tố của một tin, bài hấp dẫn sau đây: ngắn gọn; chứa đựng các đoạn văn ngắn; sắp xếp các chi tiết hợp lý; câu văn không dài dòng; từ ngữ thông dụng, dễ hiểu. Tuy nhiên, có được mọi yếu tố nhưng thiếu đi tính nóng hổi thì cũng không thể làm cho sự kiện nào đó có giá trị thông tin. Dù có sáng tạo đến đâu chăng nữa thì tin, bài đó cũng phải đưa ra một bức tranh khách quan về dân số và phát triển của đất nước ta, không tô vẽ những gì đã xảy ra, không phản ánh sự thiên vị cá nhân của phóng viên và cố gắng hết mức để trả lời những câu hỏi mà người đọc báo muốn được trả lời.
Chuẩn bị tốt những kiến thức cần thiết, luyện tập vững vàng những kỹ năng này lúc còn trên ghế nhà trường, chắc chắn sinh viên sẽ không quá bỡ ngỡ khi bước vào cuộc đời của một người làm báo thực thụ.../.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền số 4 (tháng 7+8)/2005
Bài liên quan
- Ngoại giao văn hóa Nhật Bản thông qua Manga và Anime trong quảng bá Thế vận hội Olympic Tokyo 2020 và một số gợi mở thực tiễn đối với Việt Nam
- Ứng dụng câu lệnh điều khiển AI trong hoạt động giảng dạy của giảng viên: Thực trạng và giải pháp
- Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thông tin về sách giáo khoa trên báo mạng điện tử Việt Nam
- Năng lực ngôn ngữ và vai trò của năng lực ngôn ngữ đối với sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Một số yếu tố tác động đến đổi mới phương pháp định hướng dư luận xã hội ở nước ta hiện nay
Xem nhiều
-
1
Một số giải pháp xử lý thông tin giả, sai lệch, xuyên tạc tác động đến dư luận xã hội ở Việt Nam hiện nay
-
2
Vai trò của cấp ủy cơ sở tại tỉnh Điện Biên trong thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021-2025: thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng
-
3
Quảng bá di sản văn hóa phi vật thể trên các kênh truyền thông số: Đặc trưng và những yêu cầu đặt ra
-
4
Giải pháp nâng cao chất lượng thông tin về chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào dân tộc thiểu số trên báo mạng điện tử ở Việt Nam hiên nay
-
5
Tăng cường quản lý công chức cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh ở Đông Nam Bộ hiện nay
-
6
Nhân sinh quan Phật giáo với việc xây dựng lối sống cho học sinh trung học phổ thông ở Việt Nam hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Ứng dụng câu lệnh điều khiển AI trong hoạt động giảng dạy của giảng viên: Thực trạng và giải pháp
Bài viết phân tích kỹ năng sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) của giảng viên trong hoạt động giảng dạy, tập trung vào kỹ năng xây dựng câu lệnh điều khiển AI (Prompt Engineering), đồng thời làm rõ thêm tầm quan trọng của việc làm chủ các lệnh (prompt) này trong các hoạt động: tìm kiếm tài liệu, xây dựng học liệu số, đánh giá kết quả bài giảng. Thông qua thực tiễn giảng dạy trong lĩnh vực lý luận chính trị, báo chí truyền thông, bài báo đề xuất các cấu trúc prompt từ cơ bản đến mở rộng, gợi mở một số ví dụ áp dụng trong quá trình giảng dạy, đồng thời, đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả ứng dụng AI vào hoạt động giảng dạy ở các cơ sở giáo dục đại học.
Ngoại giao văn hóa Nhật Bản thông qua Manga và Anime trong quảng bá Thế vận hội Olympic Tokyo 2020 và một số gợi mở thực tiễn đối với Việt Nam
Ngoại giao văn hóa Nhật Bản thông qua Manga và Anime trong quảng bá Thế vận hội Olympic Tokyo 2020 và một số gợi mở thực tiễn đối với Việt Nam
Ngoại giao văn hóa là hình thức sử dụng quyền lực mềm để quốc gia mở rộng ảnh hưởng. Ngày nay, hoạt động này càng hiệu quả nhờ các phương tiện đa dạng. Anime và manga của Nhật Bản đã lan rộng toàn cầu, thu hút đông đảo người hâm mộ, góp phần thúc đẩy sự thấu hiểu và chia sẻ giá trị chung. Việc sử dụng chín nhân vật manga nổi tiếng cùng sự hợp tác với các hãng anime để quảng bá Thế vận hội giúp Nhật Bản lan tỏa tinh thần thể thao và tạo nên mối quan hệ cộng sinh tích cực. Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu ngoại giao văn hóa của Nhật Bản qua anime và manga trong quảng bá Thế vận hội Tokyo 2020, đồng thời đưa ra gợi ý về việc ứng dụng công cụ văn hóa trong ngoại giao và thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau qua thể thao.
Ứng dụng câu lệnh điều khiển AI trong hoạt động giảng dạy của giảng viên: Thực trạng và giải pháp
Ứng dụng câu lệnh điều khiển AI trong hoạt động giảng dạy của giảng viên: Thực trạng và giải pháp
Bài viết phân tích kỹ năng sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) của giảng viên trong hoạt động giảng dạy, tập trung vào kỹ năng xây dựng câu lệnh điều khiển AI (Prompt Engineering), đồng thời làm rõ thêm tầm quan trọng của việc làm chủ các lệnh (prompt) này trong các hoạt động: tìm kiếm tài liệu, xây dựng học liệu số, đánh giá kết quả bài giảng. Thông qua thực tiễn giảng dạy trong lĩnh vực lý luận chính trị, báo chí truyền thông, bài báo đề xuất các cấu trúc prompt từ cơ bản đến mở rộng, gợi mở một số ví dụ áp dụng trong quá trình giảng dạy, đồng thời, đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả ứng dụng AI vào hoạt động giảng dạy ở các cơ sở giáo dục đại học.
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thông tin về sách giáo khoa trên báo mạng điện tử Việt Nam
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thông tin về sách giáo khoa trên báo mạng điện tử Việt Nam
Lịch sử phát triển sách giáo khoa giáo dục phổ thông Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn cải cách quan trọng, gắn với các mốc thay sách vào các năm: 1957, 1981, 2002, 2020(1). Mới đây, cuối tháng 8 năm 2025, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 71 về việc rà soát thực hiện chương trình giáo dục phổ thông, đảm bảo cung cấp một bộ sách giáo khoa thống nhất toàn quốc. Trước đó, thời điểm Chương trình giáo dục phổ thông 2018 được ban hành, đã tạo nên những thay đổi lớn đối với nền giáo dục nước nhà, đồng thời đặt ra nhiều thách thức trong công tác quản lý và truyền thông về sách giáo khoa. Trước những biến động về chính sách giáo dục, báo chí Việt Nam có trách nhiệm truyền tải thông tin một cách đầy đủ, chính xác và khách quan, nhằm giúp công chúng nắm bắt được chủ trương của Đảng, đường lối của Nhà nước về vấn đề sách giáo khoa. Trên cơ sở đó, bài viết này tập trung phân tích thực trạng quản lý thông tin về sách giáo khoa trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay, chỉ ra những vấn đề còn tồn tại và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thông tin ở lĩnh vực này.
Năng lực ngôn ngữ và vai trò của năng lực ngôn ngữ đối với sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Năng lực ngôn ngữ và vai trò của năng lực ngôn ngữ đối với sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng và tiện lợi nhất. Nhưng để giao tiếp có hiệu quả phải cần đến năng lực ngôn ngữ (NLNN). Trong xã hội phát triển như hiện nay, việc mở rộng phạm vi, loại hình, không gian, cách thức giao tiếp là tất yếu, theo đó NLNN càng trở nên quan trọng. Do vậy, việc phát triển NLNN cần phải trở thành điều kiện tiên quyết, nhất là đối với sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền (Học viện BC&TT). Bài này nói về vai trò của NLNN đối với sinh viên của Học viện trong hoạt động tác nghiệp.
Bình luận