Phóng viên có nên xuất hiện trong phóng sự điều tra
Có nên xuất hiện trên truyền hình
Tôi thực sự lo cho sự an toàn của phóng viên?
Phóng viên làm điều tra có nên xuất hiện rõ mặt, rõ tên không? Các ban biên tập, kênh truyền hình có nên cho phóng viên xuất hiện trong phóng sự điều tra? Tôi buộc phải lên tiếng với tư cách một phóng viên đã có nhiều năm công tác tại Đài Truyền hình Việt Nam. Đáng báo động!
Nhìn lại các tờ báo trong những năm 90 của thế kỷ trước, các bài điều tra thường ghi cuối các bài viết là nhóm phóng viên điều tra của Báo Lao động hay Tiền phong, Thanh niên, Tuổi trẻ… Điều này rất chính xác khi giữ bí mật và sự an toàn cho phóng viên điều tra. Hiện nay, trên báo in vẫn xuất hiện “Nhóm phóng viên điều tra” sau các phóng sự điều tra.
Còn với truyền hình cùng với sự phát triển quá nóng nên các chương trình, các kênh truyền hình khuyến khích phóng viên dẫn hiện trường. Điều này rất tốt, vì phóng sự sẽ chân thực, dễ hiểu và thuyết phục người xem. Thực chất dẫn hiện trường là một kỹ năng, một thủ pháp tác nghiệp của truyền hình hiện đại.
Tuy nhiên trong phóng sự điều tra thì sao? Các đài truyền hình nên có quy định cho phóng viên điều tra như: Không lộ mặt, không dẫn hiện trường, không tự đọc phóng sự điều tra… để đảm bảo an toàn cho phóng viên của mình.
Một phóng viên có tên tuổi ở VTV trong một phỏng vấn nhân dịp phóng viên lọt top 5 người ấn tượng của VTV Award đã khẳng định: Tôi thích dẫn hiện trường trong phóng sự điều tra dù biết nguy hiểm! Tôi thực sự “cạn lời” với phóng viên ấy! Phóng viên muốn đổi tính mạng và sự an toàn cho sự nổi tiếng? Khi bất chấp sự an toàn của bản thân và sự an tâm của người thân?
Bài học từ những phóng viên quốc tế
Một nhà báo quốc tế khi giảng dạy cho các phóng viên của VTV trong thời điểm Trung Quốc đưa giàn khoan HD 981 ra biển Đông chia sẻ: “Các bạn là phóng viên đi săn tin tức. Đừng biến mình thành tin tức!”. Chia sẻ đó khiến tất cả phóng viên tham gia khóa học đều tâm đắc và thấm thía!
Nhà báo Sean Walker, Điều phối viên cao cấp “Hậu cần tại Hiện trường” của CNN tại Hongkong chia sẻ, khi nói đến đảm bảo an ninh, an toàn, mọi người thường chỉ nghĩ đến các điểm nóng như chiến tranh, xung đột vũ trang, khủng bố. Thế nhưng, công tác an toàn tại nơi tác nghiệp còn là ở những nơi như môi trường xa lạ với phóng viên, nơi bệnh tật hoành hành, thiên tai, sự cố hạt nhân. Do phóng viên nhiều khi chỉ mải mê chạy theo tin tức mà quên đi các nguyên tắc an toàn, nên công việc của chuyên gia an ninh là phải luôn sát cánh bên họ.
Đối với một hãng tin tức, các hoạt động sau là không thể thiếu: Đào tạo cơ bản về các kiến thức chăm sóc y tế cho toàn bộ nhân viên, phóng viên, biên tập. CNN thường thuê một số công ty đào tạo khóa học này. Nội dung tập huấn: Chăm sóc y tế ban đầu, các kỹ năng sinh tồn, cách sử dụng mặt nạ khí gas v.v.. Tất cả nhân sự đều phải tham gia khóa đào tạo này, bởi nếu trong ê-kíp hiện trường chỉ có một người đã qua đào tạo sẽ rất rủi ro nếu như đúng người đó bị thương nặng.
Đối với từng địa điểm làm tin cụ thể mà CNN sẽ có khóa huấn luyện riêng, chuyên sâu hơn. Ví dụ, về cách phòng chống bệnh Zika (Brazil, Mexico), Mers (Hàn Quốc), an toàn hạt nhân (Fukushima), v.v.. Các khóa học này có thể do những người đã có kinh nghiệm tại CNN thực hiện hoặc thuê chuyên gia bên ngoài giảng dạy.
Có cơ sở dữ liệu, bao gồm thước đo đánh giá về mức độ rủi ro của các điểm nóng trên thế giới. Trên cơ sở đó, chuyên gia an ninh sẽ đưa ra khuyến nghị là “không” được tiếp cận địa điểm nào, hoặc các khuyến nghị mà ê-kíp sản xuất cần thực hiện để đảm bảo an ninh.
Tôi thấy buộc phải viết bài viết này để cảnh báo về làn sóng dẫn hiện trường trong các phóng sự điều tra từ Đài Truyền hình Việt Nam đến các đài phát thanh truyền hình địa phương.
Trả lời câu hỏi của nhà báo Hải Yến, nhà báo Lê Anh Phương, Trưởng đại diện của Đài Truyền hình Việt Nam tại Trung Đông bày tỏ quan điểm, trước hết, xin khẳng định một điều: Không bao giờ có việc chúng tôi tác nghiệp khi không đảm bảo được mức độ an toàn nhất định cho bản thân. Có một nguyên tắc bất di bất dịch, không chỉ với chúng tôi mà với bất cứ phóng viên nào, khi tác nghiệp tại những điểm nóng, đó là không có tin tức nào quan trọng hơn mạng sống, phóng viên phản ánh tin tức chứ không biến mình thành tin tức./.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Người làm báo điện tử ngày 07.10.2020
Bài liên quan
- Truyền thông về cấm thuốc lá điện tử trên báo chí Việt Nam hiện nay
- Trẻ tự kỷ trên báo chí: Từ hình ảnh “nạn nhân” đến người hùng - Một nghiên cứu phân tích khung truyền thông
- Tương tác của công chúng trên Báo điện tử VnExpress.net hiện nay, thực trạng và một số giải pháp
- Diễn ngôn truyền thông về “Vành đai, Con đường”: So sánh giữa Trung Quốc và Đông Nam Á
- Sửa đổi Luật Báo chí 2016 để bảo đảm tối đa quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân
Xem nhiều
-
1
Quảng bá di sản văn hóa phi vật thể trên các kênh truyền thông số: Đặc trưng và những yêu cầu đặt ra
-
2
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thông tin về sách giáo khoa trên báo mạng điện tử Việt Nam
-
3
Phát triển lực lượng sản xuất chất lượng mới ở Việt Nam hướng tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa
-
4
Tăng cường nguồn lực tài chính cho chuyển đổi xanh ở Việt Nam
-
5
Diễn ngôn truyền thông về “Vành đai, Con đường”: So sánh giữa Trung Quốc và Đông Nam Á
-
6
Xây dựng đội ngũ tình nguyện viên tại Trung tâm Thông tin khoa học - Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong công tác xử lý tài liệu hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Ảnh hưởng của tính minh bạch và cá nhân hóa trong nền tảng VieON đến sự hài lòng của người dùng
Nghiên cứu này kiểm định mô hình mối quan hệ giữa nhận thức về đề xuất nội dung, cảm nhận kiểm soát, mức độ hài lòng và ý định tiếp tục sử dụng, với trường hợp điển hình là VieON. Khảo sát trực tuyến được thực hiện với 224 người dùng, sử dụng các thang đo đã kiểm định qua Cronbach’s Alpha, EFA, phân tích tương quan và hồi quy tuyến tính, đồng thời kiểm soát các biến giới tính, độ tuổi và tần suất sử dụng. Kết quả cho thấy độ phù hợp và minh bạch (FT) là yếu tố quyết định cả sự hài lòng và ý định sử dụng, trong khi tính hữu ích của gợi ý (RU) chỉ có tác động bổ sung và không còn ý nghĩa khi dự báo sự hài lòng. Mức độ hài lòng (SAT) không giữ vai trò trung gian quan trọng, do ảnh hưởng trực tiếp mạnh mẽ từ FT và RU. Các đặc điểm nhân khẩu học cũng tạo ra khác biệt đáng kể. Nghiên cứu khẳng định minh bạch và cá nhân hóa trong hệ thống gợi ý là đòn bẩy chiến lược giúp các nền tảng OTT củng cố niềm tin và lòng trung thành của người dùng.
Truyền thông về cấm thuốc lá điện tử trên báo chí Việt Nam hiện nay
Truyền thông về cấm thuốc lá điện tử trên báo chí Việt Nam hiện nay
Bài viết phân tích hoạt động truyền thông về chính sách cấm thuốc lá điện tử trên báo chí Việt Nam trong giai đoạn đầu năm 2025. Thời điểm Nghị quyết 173/2024/QH15 chính thức có hiệu lực. Thông qua khảo sát các bài viết đăng trên các báo điện tử (Tuổi Trẻ, VnExpress, Thanh Niên, Sức khỏe & Đời sống, Dân trí, VietnamNet, VOV, Công an nhân dân), về hai nhóm chủ đề: (1) thực trạng sử dụng và buôn bán thuốc lá điện tử; (2) thông tin và giải thích chính sách cấm, cho thấy, báo chí có vai trò quan trọng trong việc thông tin phản ánh thực trạng, phổ biến nội dung lệnh cấm, góp phần định hướng dư luận xã hội… Tuy nhiên, quá trình thông tin vẫn tồn tại nhiều hạn chế. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng truyền thông chính sách, góp phần thực thi lệnh cấm hiệu quả, bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
Trẻ tự kỷ trên báo chí: Từ hình ảnh “nạn nhân” đến người hùng - Một nghiên cứu phân tích khung truyền thông
Trẻ tự kỷ trên báo chí: Từ hình ảnh “nạn nhân” đến người hùng - Một nghiên cứu phân tích khung truyền thông
Trong những năm gần đây, tại Việt Nam, hình ảnh trẻ tự kỷ xuất hiện thường xuyên trên báo chí. Không chỉ được khắc họa dưới góc nhìn “nạn nhân” - những cá nhân thiệt thòi, yếu thế, cần sự bảo vệ, trẻ tự kỷ còn được truyền thông ở hình ảnh “người hùng” - những cá nhân giàu nghị lực, tài năng, trở thành nguồn cảm hứng cho cộng đồng. Bài nghiên cứu này vận dụng phương pháp phân tích khung truyền thông (framing analysis) để làm rõ thực trạng truyền thông về hình ảnh trẻ tự kỷ trên báo chí Việt Nam, từ đó, đánh giá tác động đối với nhận thức xã hội, hành vi cộng đồng và chính sách hỗ trợ trẻ tự kỷ ở nước ta hiện nay.
Tương tác của công chúng trên Báo điện tử VnExpress.net hiện nay, thực trạng và một số giải pháp
Tương tác của công chúng trên Báo điện tử VnExpress.net hiện nay, thực trạng và một số giải pháp
Trong kỷ nguyên truyền thông số, sự tương tác của công chúng đã trở thành yếu tố then chốt khẳng định sức hút và uy tín của báo mạng điện tử. Với vị thế là tờ báo tiếng Việt có lượng truy cập lớn nhất(1), VnExpress không chỉ dẫn đầu về tốc độ cập nhật mà còn tiên phong trong việc mở rộng không gian đối thoại, trao đổi đa chiều với độc giả. Những bình luận, phản hồi và chia sẻ từ công chúng đã và đang góp phần làm nên bản sắc, đồng thời khẳng định vị thế của VnExpress trong đời sống báo chí hiện nay.
Diễn ngôn truyền thông về “Vành đai, Con đường”: So sánh giữa Trung Quốc và Đông Nam Á
Diễn ngôn truyền thông về “Vành đai, Con đường”: So sánh giữa Trung Quốc và Đông Nam Á
Kể từ khi được khởi xướng vào năm 2013, Sáng kiến “Vành đai, Con đường” (BRI) đã trở thành một trong những chủ đề quan trọng trong quan hệ quốc tế và diễn ngôn truyền thông toàn cầu. Nghiên cứu cho thấy, truyền thông Trung Quốc chủ yếu thông qua các kênh chính thống và sự kiện truyền thông được hoạch định để xây dựng một diễn ngôn tích cực, nhất quán, nhấn mạnh các khía cạnh “hợp tác cùng thắng”, “cộng đồng chia sẻ tương lai” và các thành tựu kinh tế vĩ mô. Ngược lại, truyền thông Đông Nam Á thể hiện một bức tranh phức tạp và đa chiều, với thái độ dao động từ ủng hộ đến hoài nghi, dè dặt. Các chủ đề chính bao gồm lợi ích kinh tế cụ thể, tác động xã hội tại địa phương, các vấn đề về chủ quyền, bẫy nợ và sự cân bằng quan hệ với các cường quốc khác. Từ những phân tích này, bài viết đưa ra một số gợi mở chiến lược cho báo chí, truyền thông Việt Nam trong việc xây dựng một diễn ngôn độc lập, cân bằng và hiệu quả về BRI nhằm phục vụ tốt nhất lợi ích quốc gia.
llcttt1994dientu@gmail.com
024.38348033
Bình luận