Suy dinh dưỡng của trẻ em Việt Nam nguyên nhân và giải pháp
Việt Nam là một trong những quốc gia đang trên đường thoát nghèo và cũng như nhiều nước đang phát triển trong khu vực tình trạng suy dinh dưỡng trẻ em vẫn là một tồn tại dai dẳng.
Trong suốt gần 20 năm qua chúng ta đã thực hiện rất nhiều những biện pháp tích cực, như đẩy mạnh các chương trình y tế công cộng nhằm giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng cho trẻ em và nâng cao chất lượng dân số. Có thể nói cho tới thời điểm này chúng ta đã đạt được những thành tích khả quan. Nếu như năm 1986, năm đầu của thời kỳ đổi mới chúng ta có tới 50% trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng ở thể nhẹ cân thì tới năm 1998 tỷ lệ này đã giảm đáng kể 35,6% và năm 2000 là 33,1%. Mới đây, qua số liệu khảo sát ở trên 11.000 hộ gia đình (năm 2002) cho thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em đã giảm xuống một cách đáng mừng: suy dinh dưỡng ở dạng nhẹ cân là 25,27%, suy dinh dưỡng còi cọc là 22,5% và suy dinh dưỡng gầy còm là 7,5%. So với các nước trong khu vực thì tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em của ta hãy còn ở mức khá cao, chỉ thấp hơn Campuchia, Lào và Myanmar (Campuchia là nước có tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em cao nhất xấp xỉ 50% vào năm 2000).
Theo số liệu điều tra y tế năm 2002, tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi yếu tố mức sống, khu vực, địa bàn sinh sống, yếu tố gia đình thậm chí cả tập quán sinh sống của từng dân tộc. ở những vùng có nền kinh tế phát triển thì tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em sẽ ở mức thấp nhất. Ví dụ như ở vùng đồng bằng sông Hồng, tỷ lệ suy dinh dưỡng là 21,7%, Đông Nam bộ là 19,9% trong khi đó các vùng Đông Bắc, Tây Bắc và Tây Nguyên là những nơi có điều kiện sống khó khăn hơn thì tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em có mức cao nhất từ 29-31%. Cũng theo kết quả điều tra, số trẻ sống ở thành thị ít có nguy cơ suy dinh dưỡng hơn nhiều lần so với trẻ sống ở nông thôn, ví dụ ở thành thị trẻ suy dinh dưỡng ở thể thấp cân là 14,8% thì ở nông thôn là 28,4%, ở thể còi cọc là 11,9% so với 25,1%. Điều này có liên quan chặt chẽ tới mức sống, thu nhập và quy mô hộ gia đình. Mức sống thành thị luôn cao hơn nhiều lần so với ở nông thôn thêm vào đó trẻ ở đây đa số sinh ra trong gia đình ít con nên được chăm sóc chu đáo hơn. Các điều kiện này hầu như ngược lại so với trẻ sống ở nông thôn do vậy mà tỷ lệ suy dinh dưỡng ở nông thôn luôn gấp hai lần so với thành thị.
Tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi cũng chênh lệch khá lớn giữa hộ giàu và hộ nghèo. Nếu như suy dinh dưỡng thấp cân ở nhóm hộ giàu là 12,2% thì ở nhóm hộ nghèo là 34,7% và tỷ lệ này giảm dần theo mức thu nhập tăng lên của hộ gia đình…
Có rất nhiều nguyên nhân tác động đến tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em Việt Nam trong đó nguyên nhân quan trọng nhất đó là mức sống. Mức sống khác nhau giữa các vùng, miền, hộ gia đình, kèm theo điều kiện vệ sinh môi trường, dịch bệnh, nguồn thức ăn, thiên tai cũng tác động lớn tới tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ. Qua điều tra cho thấy số trẻ em bị suy dinh dưỡng do tiêu chảy, do thiếu nước sạch, giảm khẩu phần ăn, do dịch bệnh… cũng không phải là nhỏ mặc dù trước đó số trẻ này không hề bị suy dinh dưỡng. Tuy nhiên người ta cũng nhận thấy trình độ của người mẹ lại có liên quan chặt chẽ tới tình trạng suy dinh dưỡng là con của các bà mẹ có trình độ cấp 1 và mù chữ cao gấp 3 lần so với nhóm bà mẹ có học vấn trên cấp 3. Ví dụ, ở nhóm trẻ suy dinh dưỡng từ 5 đến 10 tuổi có 39% là con của các bà mẹ mù chữ và trình độ cấp I, trong khi đó ở nhóm bà mẹ có trình độ trên cấp II là 13,3%. ở nhóm phụ nữ có trình độ học vấn cao họ có thể tiếp cận với các thông tin về dinh dưỡng dễ dàng hơn, họ ý thức hơn trong việc giữ gìn vệ sinh, phòng dịch bệnh cho con cái đồng thời cũng có điều kiện chăm sóc con nhiều hơn so với nhóm phụ nữ nghèo, ít học, kinh tế khó khăn đặc biệt là ở vùng nông thôn miền núi và dân tộc thiểu số. Qui mô gia đình cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi. ở các gia đình đông con và kinh tế eo hẹp thì nguy cơ suy dinh dưỡng của trẻ cũng cao gấp nhiều lần so với trẻ trong gia đình ít con. Số liệu điều tra cũng cho thấy tình trạng suy dinh dưỡng trẻ em ở vùng sâu vùng xa, vùng dân tộc ít người hãy còn rất phức tạp. Mà nguyên nhân chính đó là đa số trẻ ở đây đều sinh ra trong gia đình đông con, thiếu lương thực, thực phẩm và bố mẹ thiếu kiến thức nuôi con. Số trẻ suy dinh dưỡng thuộc nhóm dân tộc ít người luôn giữ ở mức cao 35%, trong khi tỷ lệ này ở nhóm người Kinh là 25%.
Bên cạnh tình trạng suy dinh dưỡng ở thể nhẹ cân thì tình trạng béo phì ở trẻ em cũng đang có xu hướng gia tăng. Béo phì thực chất không phải là triển vọng tốt về sức khoẻ mà nó báo hiệu sự mất cân đối về dinh dưỡng cũng như nguy cơ bệnh tật ở nhóm trẻ này. Theo số liệu điều tra năm 2001-2002, số trẻ dưới 5 tuổi ở tình trạng thừa cân béo phì trên cả nước chỉ chiếm khoảng 1,3%. Mức sống ngày càng được cải thiện, kinh tế gia đình khá giả, ăn uống thừa đạm, ít vận động chính là nguyên nhân dẫn tới thừa cân ở trẻ. Tình trạng này có tỷ lệ tăng lên ở những vùng kinh tế phát triển và tập trung phần lớn ở khu vực thành thị. Con cái của những gia đình khá giả, và của các bà mẹ có trình độ học vấn cao lại có nhiều nguy cơ béo phì hơn so với trẻ trong các gia đình nghèo hoặc trung lưu.
Có thể nói trong điều kiện nước ta hiện nay vấn đề dinh dưỡng ở trẻ đã và đang diễn biến khá phức tạp, nó không chỉ đơn thuần ở dạng gầy còm, nhẹ cân mà còn là vấn đề thừa dinh dưỡng, thiếu vitamin A, thiếu I-ốt…. Do đó để thực hiện tốt mục tiêu giảm suy dinh dưỡng cho trẻ cần một chương trình chăm sóc sức khỏe toàn diện và rộng rãi hơn nữa trên khắp các vùng miền cả nước. Tuy nhiên cần phải thấy rằng một trong những nguyên nhân khiến Chương trình phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ em Việt Nam tới thời điểm này hãy còn hạn chế đó là do vấn đề truyền bá thông tin tới dân cư đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc hãy còn ít, thêm vào đó công tác kế hoạch hoá gia đình vẫn chưa thực hiện triệt để đối với vùng sâu vùng xa. Vậy làm thế nào để giảm mạnh tình trạng suy dinh dưỡng cho trẻ trong điều kiện kinh tế đất nước hãy còn nhiều khó khăn. Theo Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2001-2010 của Thủ tướng Chính phủ, các mục tiêu được đặt ra như sau:
- Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp cân ở nhóm trẻ dưới 5 tuổi giảm 1,5% mỗi năm, còn dưới 25% vào năm 2005 và dưới 20% vào năm 2010.
- Tỷ lệ suy dinh dưỡng chiều cao/tuổi (thấp còi giảm 1,5% mỗi năm).
- Tỷ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân dưới 2500g còn 7% vào năm 2005 và 6% vào năm 2010.
- Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức và thực hành dinh dưỡng đúng cho trẻ ốm từ 20,2% năm 2000 tăng lên 40% vào năm 2005 và lên 60% vào năm 2010.
- Tỷ lệ nữ thanh niên được huấn luyện về dinh dưỡng và kiến thức làm mẹ đạt 25% vào năm 2005 và 40% vào năm 2010.
Để đạt được mục tiêu trên, trong thời gian tới rất cần sự cố gắng của toàn xã hội, gia đình trong việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho trẻ em nói riêng và toàn cộng đồng nói chung. Trước hết, đó là đẩy mạnh các chương trình phát triển kinh tế hộ gia đình; thực hiện đúng pháp lệnh dân số và làm tốt kế hoạch hoá gia đình (đặc biệt chú trọng tới các vùng nông thôn miền núi). Đồng thời đẩy mạnh phổ cập giáo dục, xúc tiến công tác thông tin tuyên truyền về dinh dưỡng cho phụ nữ và trẻ em nông thôn, dân tộc ít người. Đẩy mạnh các chương trình y tế công cộng tới những vùng sâu vùng xa như tiêm chủng mở rộng, cho trẻ uống vitamin A theo định kỳ. Hướng dẫn cho phụ nữ thôn bản biết cách nuôi con đủ chất, hợp vệ sinh… Tóm lại, thực hiện tốt phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ chính là thực hiện thành công chiến lược nâng cao chất lượng dân số, phát triển con người vì mục tiêu phát triển bền vững của đất nước cũng như cả loài người trên toàn thế giới.
__________________________
Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền số 2 (tháng 3+4).2005
Việt Hà
Bài liên quan
- Phát huy giá trị đạo đức để khơi dậy động lực cống hiến và khát vọng thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nhân Việt Nam
- Giải pháp chủ động phòng ngừa, ứng phó các nguy cơ an ninh phi truyền thống, trọng tâm đảm bảo an ninh mạng, an ninh thông tin trong bối cảnh thế giới đại chuyển đổi dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
- Chăm lo đời sống nhân dân - những thành quả không thể phủ nhận
- Tiếp cận về bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý ở cơ quan hành chính nhà nước Việt Nam
- Tự hào và tin tưởng dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng
Xem nhiều
- 1 Mạch Nguồn số 47: Người gieo mầm xanh
- 2 Mạch Nguồn 46: Chèo làng Khuốc - Tìm về làn điệu tiến Vua
- 3 Thông báo tuyển sinh Chương trình Cử nhân quốc tế Quảng cáo, Quan hệ công chúng và Thương hiệu năm 2024
- 4 Hiệp định Pari - thắng lợi có ý nghĩa chiến lược dẫn đến đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
- 5 Các yếu tố tác động đến sự hình thành dư luận xã hội
- 6 Đại hội đại biểu Hội Cựu sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền nhiệm kỳ 2024 – 2029
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Chính sách phân quyền của chủ nghĩa tân tự do trong quản lý giáo dục đại học – Kinh nghiệm triển khai tại một số nước và gợi ý đối với Việt Nam
Chính sách phân quyền là một trong những xu hướng đáng chú ý trong chính sách giáo dục trên toàn thế giới dưới tác động của toàn cầu hóa và chủ nghĩa tân tự do (neoliberalism - một trường phái kinh tế và chính trị tập trung vào việc giảm sự can thiệp của chính phủ trong kinh tế và thúc đẩy tự do kinh doanh và thị trường). Phân quyền được hiểu là sự chuyển giao quyền quyết định về chính sách, kế hoạch, điều hành và phân bổ nguồn lực từ Bộ đến các sở và các trường học. Cơ cấu quản lý như vậy sẽ tăng cường quyền tự chủ và năng lực cạnh tranh giữa các trường, nhưng cũng có thể gia tăng khoảng cách giữa mục tiêu giáo dục và thành tích học tập. Trong bối cảnh quản lý tập trung của Việt Nam, câu hỏi liệu việc phân quyền có thể giúp giáo dục đại học giải quyết các vấn đề về chất lượng, sự bình đẳng và trách nhiệm giải trình hay không vẫn chưa được trả lời thỏa đáng. Vì vậy, bài báo này sẽ làm rõ một số vấn đề về chính sách phân quyền của chủ nghĩa tân tự do trong quản lý giáo dục đại học và bài học kinh nghiệm từ một số nước qua thực tế triển khai.
Phát huy giá trị đạo đức để khơi dậy động lực cống hiến và khát vọng thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nhân Việt Nam
Phát huy giá trị đạo đức để khơi dậy động lực cống hiến và khát vọng thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nhân Việt Nam
Bài viết phân tích tầm quan trọng của việc phát huy tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tình yêu quê hương của các doanh nhân; tinh thần tự giác, phấn đấu vươn lên, có ý thức trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh của doanh nhân; lý tưởng sống cao đẹp, tinh thần tương thân, tương ái, có ước mơ, khát vọng vươn lên; trách nhiệm cá nhân, tinh thần tập thể, tinh thần phục vụ nhân dân của doanh nhân. Trên cơ sở đó, đề xuất 4 giải pháp để khơi dậy động lực cống hiến và khát vọng thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nhân Việt Nam.
Giải pháp chủ động phòng ngừa, ứng phó các nguy cơ an ninh phi truyền thống, trọng tâm đảm bảo an ninh mạng, an ninh thông tin trong bối cảnh thế giới đại chuyển đổi dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Giải pháp chủ động phòng ngừa, ứng phó các nguy cơ an ninh phi truyền thống, trọng tâm đảm bảo an ninh mạng, an ninh thông tin trong bối cảnh thế giới đại chuyển đổi dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Trong bối cảnh thế giới đại chuyển động dưới ảnh hưởng của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, các vấn đề an ninh phi truyền thống đã trở thành những yếu tố bất ổn, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, đồng thời, đặt ra những thách thức mới đối với hòa bình, ổn định khu vực và quốc tế. Theo thống kê của Liên hợp quốc, an ninh phi truyền thống đang đối mặt với hàng chục mối đe dọa. Trong đó, có những vấn đề cần được đặc biệt quan tâm như khủng bố, ma túy, tin tặc, thảm họa môi trường, dịch bệnh, mua bán người, di cư trái phép, đặc biệt là vi phạm chủ quyền không gian mạng, an ninh không gian mạng, tội phạm công nghệ cao… cần có các giải pháp hữu hiệu để chủ động phòng ngừa, ứng phó. Trên tinh thần đó, các giải pháp được tác giả nhấn mạnh bao gồm về nguồn nhân lực, vật lực, chính sách, đặc biệt là giải pháp công nghệ.
Chăm lo đời sống nhân dân - những thành quả không thể phủ nhận
Chăm lo đời sống nhân dân - những thành quả không thể phủ nhận
Nhằm bảo đảm bản chất dân chủ thật sự của chế độ xã hội chủ nghĩa, Đảng ta xác định, cần phải để nhân dân không chỉ được “biết”, được “bàn”, được “làm”, được “kiểm tra”, được “giám sát” việc ban hành và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, mà quan trọng hơn là phải được “thụ hưởng” những thành quả của tiến trình phát triển đất nước. Trên tinh thần ấy, những năm qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam rất coi trọng và luôn nỗ lực thực hiện các chính sách xã hội, chăm lo đời sống mọi mặt cho các tầng lớp nhân dân.
Tiếp cận về bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý ở cơ quan hành chính nhà nước Việt Nam
Tiếp cận về bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý ở cơ quan hành chính nhà nước Việt Nam
Bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý ở cơ quan hành chính nhà nước là một trong các chỉ số quan trọng để đo lường về bình đẳng giới. Vấn đề này được các quốc gia trên thế giới đặc biệt quan tâm và thể hiện trong các chiến lược phát triển của quốc gia, địa phương hướng tới sự phát triển bền vững, lâu dài. Bài viết nghiên cứu về bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý ở cơ quan hành chính nhà nước Việt Nam với khái niệm, cách tiếp cận và một số vấn đề cần quan tâm.
Bình luận