Tích cực triển khai tín dụng đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác
Với quyết định số 131/2002/QĐ-TTg ngày 4.10.2002 của Thủ tướng Chính phủ, một tổ chức tín dụng mới gọi là: Ngân hàng Chính sách Xã hội (NHCSXH) được thành lập và chính thức khai trương hoạt động từ tháng 4.2003. Đây cũng là một ngân hàng nhưng hoạt động của nó không vì mục tiêu lợi nhuận. Nó ra đời trên cơ sở tổ chức lại ngân hàng phục vụ người nghèo trước đó thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. Việc lập ra được một ngân hàng chuyên thực hiện tín dụng chính sách, tách khỏi tín dụng thương mại là một bước tiến mới thể hiện sự trưởng thành của hệ thống tài chính Việt Nam trước yêu cầu cạnh tranh và hội nhập quốc tế. Và như vậy, cho đến nay, hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam đã có tương đối đủ các loại hình: Ngân hàng Thương mại Nhà nước, Ngân hàng Thương mại Cổ phần, Quỹ Tín dụng nhân dân, Công ty Tài chính, Công ty Cho thuê tài chính, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, Ngân hàng liên doanh… Ngoại trừ NHCSXH hoạt động vì mục tiêu xã hội, tất cả các tổ chức tín dụng trên đây đều hoạt động chủ yếu vì mục tiêu lợi nhuận. Có dịp tìm hiểu thực tế tại các quốc gia khác, chúng ta thấy bên cạnh hệ thống tín dụng thị trường hùng hậu, họ vẫn có hình thức tổ chức và phương thức hoạt động vì mục tiêu xã hội, nhằm cung cấp tài chính ưu đãi cho tầng lớp người nghèo và một số đối tượng cần ưu đãi trong xã hội. Đối với chúng ta, khi Đảng và Nhà nước nhấn mạnh định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường, có nghĩa là mục tiêu kinh tế - xã hội càng được hoạch định rõ trong đường lối của Đảng và Nhà nước. NHCSXH được Đảng và Chính phủ cho thành lập là một trong những công cụ tài chính của Chính phủ trực tiếp góp phần thực hiện chính sách xã hội trong mối quan hệ hữu cơ với chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Chính phủ.
Hai năm 2003 - 2004 đã qua, được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, của cấp ủy và chính quyền các cấp, sự phối hợp có trách nhiệm và hiệu lực của các bộ, ngành, các tổ chức chính trị - xã hội…. NHCSXH đã thiết lập nhanh mô hình tổ chức từ Trung ương đến cơ sở bao gồm một Hội đồng quản trị (ở cấp Trung ương) cơ cấu đủ 12 thành viên đại diện cho 12 bộ ban, ngành, đoàn thể liên quan; 64 ban đại diện Hội đồng quản trị cấp tỉnh, 633 ban đại diện Hội đồng quản trị cấp quận, huyện với 6778 thành viên. Bộ máy điều hành từ cấp Trung ương đến tận cơ sở gồm 5674 cán bộ, gồm lãnh đạo và các nhân viên tác nghiệp, trong đó có 4489 cán bộ có trình độ đại học và cao đẳng, 31 cán bộ có trình độ trên đại học, bình quân mỗi chi nhánh tỉnh đã có 25 người, mỗi phòng giao dịch, quận, huyện có 7 người. Về tập trung nguồn vốn, ngoài số vốn nhận bàn giao trực tiếp từ NHNo&PTNT, từ Kho bạc Nhà nước, và quỹ đào tạo từ Ngân hàng Công thương, bản thân NHCSXH đã huy động ngòai xã hội trong 2 năm qua được trên 7 tỷ đồng. Đến hết năm 2003 tổng nguồn vốn toàn hệ thống đạt tới 15.354 tỷ đồng (tăng 8271 tỷ đồng so với ngày bắt đầu đi vào hoạt động). Về cho vay, cuối năm 2003 tổng dư nợ lên tới 14.302 tỷ đồng (tăng 7280 tỷ đồng so với ngày đầu thành lập) trong đó cho hộ nghèo vay và giải quyết việc làm chiếm 97% (13.872 tỷ đồng). Kết quả góp phần giảm số hộ nghèo từ 11% năm 2003 xuống 9% năm 2004; bố trí thêm được 350.000 chỗ làm việc mới, 10 tỉnh bắt đầu được vay vốn sử dụng cho chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường. Để việc cho vay vốn tín dụng ưu đãi đúng đối tượng chính sách, một mạng lưới “chân rết” gồm 226.000 tổ tiết kiệm và vay vốn lần lượt được lập ra tại cấp xã. Nhằm thực hiện “dân chủ từ cơ sở”, bốn tổ chức chính trị - xã hội gồm: Hội Nông dân Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh đã cùng phối hợp trực tiếp quản lý 174.253 tổ tiết kiệm và vay vốn với tổng số nợ 9.959 tỉ đồng do NHCSXH ủy thác. Bằng phương thức hoạt động này, thực tế đã tạo điều kiện cho việc quản lý và sử dụng đồng vốn an toàn, chủ động, linh họat, sát tình hình thực tế và tiết kiệm hơn. Đồng thời với nhiệm vụ tập trung và huy động vốn trong nước, NHCSXH cũng đã bắt đầu đặt quan hệ hợp tác với một số tổ chức tài chính - Tiền tệ quốc tế, triển khai 11 dự án với số vốn 194 tỷ đồng; ký hợp đồng dự án bảo vệ và phát triển vùng đất ngập mặn ven biển miền Nam với số vốn 650 ngàn USD. Năm 2005, quỹ phát triển nông nghiệp quốc tế (IFAD) sẽ tài trợ một số ô tô chuyên dùng làm phương tiện phục vụ cho Ngân hàng lưu động; dự kiến tiếp nhận 33.252.000 USD từ dự án phát triển Lâm nghiệp của Ngân hàng thế giới; tiếp nhận dự án từ ngân quỹ ủy thác ASEM 371.500 USD; Quỹ phát triển quốc tế các nước xuất khẩu dầu lửa (OPEC) 15 triệu USD. Và gần đây Thủ tướng Chính phủ cũng đã đồng ý cho NHCSXH được sử dụng khỏan vốn 56 triệu USD giải ngân đợt 2 của chương trình tài chính - ngân hàng II vay Ngân hàng phát triển châu Á.
Tuy nhiên, kết quả đạt được trên đây còn rất khiêm tốn. Trên bước đường đi tới để phát huy đúng vai trò của mình, NHCSXH cần phải vượt qua không ít thử thách, khó khăn không chỉ thuộc chủ quan mà còn cả những nhân tố khách quan khác tác động. Trước hết là nguồn vốn, mặc dù vốn đọng trong xã hội và nhân dân không ít, nhưng với NHCSXH, việc huy động nguồn vốn này không thể thực hiện bình thường như các ngân hàng khác trong cơ chế thị trường. Bởi NHCSXH không kinh doanh thu lợi khoản chênh lệch tín dụng giữa lãi suất mua vốn vào (huy động) và lãi suất bán vốn ra (cho vay). Số chênh lệch do cho vay theo cơ chế ưu đãi lãi suất, NHCSXH thường xuyên được xét duyệt cấp bù khoản chênh lệch luôn luôn là yếu tố hàng đầu, trực tiếp giúp cho công cụ tài chính này hoàn thành nhiệm vụ của nó. Trong khi NHCSXH huy động vốn thường bị ràng buộc bởi cơ chế xét duyệt cấp bù, có nghĩa là không phải muốn huy động vốn vào bao nhiêu cũng được thì, các nguồn vốn ưu đãi qua lãi suất tín dụng vẫn còn phân tán qua nhiều kênh dẫn vốn khác nhau,không ít trường hợp phát sinh tâm lý ỷ lại, trông chờ, nhầm “sân chơi” giữa các đối tượng. Thực tế không đơn giản này cần phải được tổng kết toàn diện, đánh giá đầy đủ và khách quan, xem xét trên cơ sở vì lợi ích chung tạo sự đồng thuận, nhất quán cần thiết, trước hết trên quan điểm nhận thức mới hy vọng thực hiện tốt trong thực tiễn. Chúng ta đã biết, trên cơ sở những thành công đáng kể về xóa đói, giảm nghèo trong mấy năm qua,Thủ tướng Chính phủ đã giao cho Bộ LĐTB&XH lập dự án xóa đói, giảm nghèo,phát triển theo quy mô, tốc độ và chuẩn nghèo mới. Nếu chuẩn nghèo mới bình quân chung (180 - 200.000đ/ người/ tháng đối với nông thôn và 250 - 260.000 đ/ người/ tháng đối với thành thị) thì diện hộ nghèo cả nước sẽ lên tới con số tuyệt đối là 4,6 triệu hộ. Trước yêu cầu tích cực đó, từ nay đến 2010, đối với NHCSXH, ít nhất phải lo đủ nguồn vốn không dưới 20 ngàn tỷ đồng riêng phục vụ cho tín dụng ưu đãi, xóa đói giảm nghèo. Đồng thời, với nhu cầu lớn là đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất và phương tiện hoạt động cho một tổ chức mới ra đời này -một ngân hàng có tính đặc thù hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, đặt lợi ích cộng đồng và công bằng xã hội lên trên, một tổ chức kinh tế - chính trị - xã hội chứa đựng tính nhân văn cao cả… nhất thiết phải xây dựng một đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất tương ứng, cùng với một cơ sở hạ tầng cần thiết trên cơ sở phải có sự quan tâm hữu hiệu của nhiều cấp có đủ thẩm quyền, tạo điều kiện cho tổ chức này hoạt động thực sự có hiệu quả./.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền số 4 (tháng 7+8)/2005
Bài liên quan
- Công tác tư tưởng, lý luận trong bối cảnh chuyển đổi số
- Phát huy vai trò của tổ chức đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh trong quản lý nhà nước về văn hóa dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
- Tư duy hệ thống về cải cách hành chính trong bối cảnh chính quyền địa phương hai cấp ở Việt Nam
- Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao – Nhân tố then chốt trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới ở Việt Nam hiện nay
- Quản lý đối với hội ở Việt Nam: Khung pháp lý và yếu tố tác động đến hoạt động của hội
Xem nhiều
-
1
Quảng bá di sản văn hóa phi vật thể trên các kênh truyền thông số: Đặc trưng và những yêu cầu đặt ra
-
2
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thông tin về sách giáo khoa trên báo mạng điện tử Việt Nam
-
3
Phát triển lực lượng sản xuất chất lượng mới ở Việt Nam hướng tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa
-
4
Tăng cường nguồn lực tài chính cho chuyển đổi xanh ở Việt Nam
-
5
Diễn ngôn truyền thông về “Vành đai, Con đường”: So sánh giữa Trung Quốc và Đông Nam Á
-
6
Xây dựng đội ngũ tình nguyện viên tại Trung tâm Thông tin khoa học - Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong công tác xử lý tài liệu hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Yêu cầu về chất lượng thông tin Cổng thông tin điện tử các trường đại học hiện nay
Trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ, Cổng thông tin điện tử (Cổng TTĐT) của các trường đại học không chỉ đóng vai trò là kênh cung cấp thông tin chính thống mà còn trở thành công cụ hỗ trợ đào tạo - nghiên cứu, quảng bá hình ảnh của nhà trường. Cho đến nay, hầu hết các trường đại học ở Việt Nam đều đã xây dựng và vận hành Cổng TTĐT, thể hiện sự quan tâm và nhận thức rõ ràng về tầm quan trọng của loại hình truyền thông này. Nhiều Cổng đã phát huy hiệu quả, bảo đảm tính chính xác, kịp thời, thân thiện với người dùng và có sức lan tỏa nhất định trong xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn không ít Cổng TTĐT hoạt động mang tính hình thức; nội dung thông tin chưa đa dạng, cập nhật, chưa phát huy được hết các tính năng truyền thông. Trước thực tế đó, từ bình diện lý thuyết, bài viết tập trung phân tích, làm rõ các khái niệm liên quan và yêu cầu đặt ra về chất lượng thông tin của Cổng TTĐT các trường đại học, góp phần giúp nhà trường thực hiện tốt hoạt động truyền thông, nâng cao hình ảnh, khẳng định thương hiệu trong kỷ nguyên số.
Công tác tư tưởng, lý luận trong bối cảnh chuyển đổi số
Công tác tư tưởng, lý luận trong bối cảnh chuyển đổi số
Công tác tư tưởng, lý luận luôn là bộ phận cốt lõi trong xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Trong bối cảnh chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ, yêu cầu đặt ra là phải đổi mới toàn diện công tác tư tưởng, lý luận để vừa giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng, vừa thích ứng linh hoạt với sự thay đổi sâu rộng trong xã hội, khoa học – công nghệ và truyền thông.
Phát huy vai trò của tổ chức đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh trong quản lý nhà nước về văn hóa dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
Phát huy vai trò của tổ chức đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh trong quản lý nhà nước về văn hóa dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
Tỉnh Lạng Sơn, nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, giữ vị trí chiến lược trong công tác bảo tồn và phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số. Trong thời gian qua, tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Lạng Sơn đã có những đóng góp tích cực vào quá trình quản lý nhà nước về văn hóa DTTS thông qua các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, phong trào thanh niên và tham gia giám sát chính sách. Những kết quả đạt được bước đầu thể hiện vai trò nhất định của Đoàn trong việc kết nối giữa chính quyền và thanh niên DTTS. Tuy nhiên, thực tiễn cũng cho thấy nhiều hạn chế như thiếu cơ chế phối hợp, chưa được thể chế hóa vai trò, năng lực cán bộ còn bất cập và thiếu nguồn lực bảo đảm hoạt động bền vững. Trên cơ sở phân tích thực trạng, bài viết tập trung làm rõ vai trò của tổ chức Đoàn trong quản lý nhà nước về văn hóa DTTS tại Lạng Sơn, đồng thời đề xuất một số giải pháp có tính khả thi nhằm phát huy hiệu quả hơn nữa vai trò này trong bối cảnh chuyển đổi mô hình quản trị hiện nay, góp phần thúc đẩy phát triển bền vững văn hóa vùng dân tộc.
Tư duy hệ thống về cải cách hành chính trong bối cảnh chính quyền địa phương hai cấp ở Việt Nam
Tư duy hệ thống về cải cách hành chính trong bối cảnh chính quyền địa phương hai cấp ở Việt Nam
Từ ngày 1/7/2025, nước ta chính thức vận hành mô hình chính quyền địa phương hai cấp ở tất cả 34 tỉnh, thành phố. Sau sắp xếp lại, việc vận hành mô hình mới, cắt giảm cấp trung gian đòi hỏi phải thay đổi tư duy quản trị, áp dụng tư duy hệ thống trong quản lý, điều hành, cải cách hành chính để mô hình chính quyền địa phương hai cấp thực sự mang lại hiệu quả.
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao – Nhân tố then chốt trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới ở Việt Nam hiện nay
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao – Nhân tố then chốt trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới ở Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứTư và quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức diễn ra mạnh mẽ, việc xây dựng lực lượng sản xuất mới trở thành yêu cầu tất yếu đối với sự phát triển bền vững của Việt Nam. Trong đó, nguồn nhân lực chất lượng cao có vai trò then chốt, quyết định khả năng tiếp thu, ứng dụng và sáng tạo khoa học – công nghệ, thúc đẩy năng suất lao động, đổi mới mô hình tăng trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Bài viết tập trung làm rõ vấn đề phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay - nhân tố then chốt trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới ở nước ta.
llcttt1994dientu@gmail.com
024.38348033
Bình luận