Tìm hiểu thêm về bản sắc văn hóa dân tộc
Nói đến văn hóa truyền thống là nói đến những hiện tượng văn hóa xã hội đã được định hình, tuy độ dài lịch sử chưa phải là yếu tố cốt lõi của văn hóa truyền thống, nhưng cái cốt lõi chính là ý nghĩa xã hội của nó. Trong văn hóa truyền thống có cả mặt tích cực, lẫn mặt tiêu cực, phản giá trị. Vì vậy khi nói đến giá trị văn hóa truyền thống của mỗi dân tộc là chỉ nói đến những hiện tượng văn hóa - xã hội có ích, có ý nghĩa tích cực, góp phần vào sự tiến bộ xã hội. Giá trị văn hóa truyền thống về thực chất là cái được bộc lộ trong quan hệ hiện tại với quá khứ và hướng tới tương lai. Con người của hiện tại có thái độ như thế nào đối với truyền thống, xã hội hiện tại cần đến truyền thống ở mức nào sẽ quy định giá trị của văn hóa truyền thống.
Trong tổng thể các giá trị văn hóa truyền thống thì có những giá trị cốt lõi, ổn định, tinh túy nhất làm căn cứ để so sánh văn hóa dân tộc này với văn hóa dân tộc khác, đó chính là cái riêng của mỗi dân tộc. Ở Việt Nam có nhiều khái niệm như tính dân tộc, hình thức dân tộc, đặc điểm, cốt cách, bản lĩnh, sắc thái dân tộc… Nhưng khái niệm bản sắc văn hóa dân tộc phản ánh được nét cô đọng nhất, nói lên được tính dân tộc của văn hóa.
Vì vậy, có thể hiểu: Bản sắc văn hóa dân tộc là những giá trị vật chất, tinh thần tinh túy nhất, cô đọng nhất, bền vững nhất, là sắc thái cội nguồn, riêng biệt của mỗi dân tộc, làm cho dân tộc này không thể lẫn với dân tộc khác.
Văn hóa có tính dân tộc vì nó được sáng tạo ra, được bảo tồn và lưu truyền trong cộng đồng dân tộc với điều kiện tự nhiên, xã hội, lịch sử đặc thù; qua quá trình phát triển, chắt lọc, thử thách của thời gian, những đặc điểm dân tộc in dấu ấn vào các sáng tạo văn hóa; dần dần lắng đọng, định hình tạo thành bản sắc văn hóa dân tộc. Nó tạo nên cốt cách, bản lĩnh, sức sống của một dân tộc, từ cội nguồn đó làm nảy sinh và hoàn thiện ý thức dân tộc, ngôn ngữ, văn hóa. Các yếu tố đó đã gắn kết, quy tụ các thành viên cộng đồng, tạo nên thế và lực của dân tộc.
Bản sắc văn hóa dân tộc được hình thành và phát triển phụ thuộc vào đặc điểm tộc người, điều kiện lịch sử, tự nhiên, môi trường cư trú, thể chế chính trị cũng nhự sự giao lưu với các nền văn hóa khác. Nói đến văn hóa là nói đến dân tộc đã sáng tạo ra nền văn hóa đó. Bản sắc văn hóa cũng chính là bản sắc văn hóa của dân tộc ấy.
Mỗi khi nghe một làn điệu dân ca, âm thanh của một nhạc cụ, hay xem một điệu múa là ta có thể nhận biết được sắc thái của dân tộc đó. Không có một nền văn hóa nào hình thành và phát triển được nếu không thể hiện được tâm hồn, trí tuệ, bản lĩnh, sức sáng tạo của dân tộc ấy. Văn hóa chỉ tồn tại và phát triển khi chứa đựng và thể hiện gần đầy đủ bản sắc dân tộc đã sáng tạo ra nó. Mỗi dân tộc trong quá trình lựa chọn thái độ, phương thức sống và hoạt động để ứng phó với hoàn cảnh, vừa tiếp thu, tiếp biến các giá trị để nâng cao tinh thần tự chủ, tự cường, tạo nên các tố chất riêng biệt của dân tộc, cái riêng ấy chính là bản sắc văn hóa dân tộc. Nó không chỉ được biểu hiện bên ngoài như cung cách ứng xử, phong thái sinh hoạt, nghệ thuật kiến trúc mà còn được biểu hiện ở cái bên trong như năng lực sáng tạo, tư duy, chiều sâu tâm hồn, truyền thống đạo lý, thế giới quan, nhân sinh quan.
Trong xã hội phân chia thành giai cấp, bản sắc văn hóa dân tộc có quan hệ chặt chẽ với hệ tư tưởng. Các giai cấp thống trị bao giờ cũng dùng hệ tư tưởng xâm nhập vào nền văn hóa dân tộc tạo ra sự dính kết giữa cách thức lao động sản xuất, sinh hoạt, ý thức thường ngày của quần chúng với định hướng giai cấp. Hệ tư tưởng nào cũng mong muốn thiết lập được một hệ chuẩn mới xâm nhập thành hạt nhân quyết định cho sự phát triển của nền văn hóa. Tuy nhiên, tác động ảnh hưởng của hệ tư tưởng đối với bản sắc văn hóa như thế nào hoàn toàn tùy thuộc vào giá trị tiến bộ của hệ tư tưởng đó. Khi hệ tư tưởng xâm nhập vào văn hóa dân tộc, mặc dầu nó trở thành yếu tố định hướng, yếu tố dính kết của văn hóa, nhưng nó cũng chịu sự chọn lọc, “ Khúc xạ” , "Dân tộc hóa" của bản sắc văn hóa dân tộc, do đó hệ tư tưởng cũng có những yếu tố bị bản sắc văn hóa dân tộc loại trừ.
Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng một khi hệ tư tưởng tiến bộ được vận dụng đúng đắn, gắn kết với giá trị của bản sắc văn hóa dân tộc thì nó phát huy được sức mạnh của cả dân tộc và thời đại, giai cấp và dân tộc gắn bó chặt chẽ với nhau: Hệ tư tưởng trở thành kim chỉ nam cho mọi hành động của dân tộc. Ngược lại khi hệ tư tưởng phản động, lạc hậu, hoặc là vận dụng không phù hợp các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc thì lập tức sẽ gây ra những đổ vỡ khó lường.
Bản sắc văn hóa dân tộc gắn liền với điều kiện tự nhiên, xã hội và lịch sử mà bản thân các điều kiện này đều biến chuyển theo thời gian, vì vậy bản sắc văn hóa cũng luôn luôn vận động, tuy có tính ổn định, bền vững nhưng không phải là bất biến. Song con đường vận động, phát triển của bản sắc văn hóa phức tạp hơn nhiều so với các lĩnh vực kinh tế, chính trị. Nó không phải đi theo đường thẳng, không phải văn hóa thời đại sau bao giờ cũng cao hơn thời đại trước, có những yếu tố văn hóa cổ mà văn minh ngày nay chưa thể vượt qua. Bản sắc văn hóa dân tộc cũng vận động, biến đổi theo trình độ dân trí, qua giao lưu văn hóa thời đại, nhưng vận động, tiếp biến rồi cũng xoay quanh cái gốc, trở về cái cội nguồn. Nhiều dân tộc bị áp bức bóc lột, bị nô lệ, bị đàn áp bao thế kỷ, trình độ tuy còn lạc hậu nhưng vẫn bám trụ và vươn dậy trong thời đại văn minh công nghệ tin học để chứng minh sức mạnh tiềm ẩn trong bản sắc văn hóa.
Không sức mạnh quân sự nào đè bẹp được sức mạnh văn hóa. Các trận cuồng phong của quân Nguyên Mông đã tàn phá Đông Âu, Đông Á, nhưng rồi chẳng để lại dấu vết văn hóa nào. Những cuộc thập tự chinh đẫm máu, những cuộc chiến tranh tàn khốc của chủ nghĩa đế quốc cũng không tiêu diệt được ý thức độc lập dân tộc. Tiền bạc của chủ nghĩa tư bản cũng không đồng hóa được văn hóa dân tộc thuộc địa. Sự vùng lên của các dân tộc giành quyền độc lập tự do đã chứng minh cho sức mạnh của bản sắc văn hóa dân tộc.
Xu hướng tìm về bản sắc dân tộc và xu hướng hiện đại hóa nền văn hóa nhìn bên ngoài có vẻ như là đối lập hoàn toàn, nhưng thực chất là hai xu hướng thống nhất biện chứng.
Hiện đại là cái có chất lượng hơn, tốt hơn, văn minh hơn cái trước đây, đáp ứng được yêu cầu của hiện tại và tương lai của sự phát triển. Muốn vượt lên cái cũ, chinh phục cái mới, phải có một nền văn hóa phát triển, đó là con đường duy nhất đúng đắn. Văn hóa phát triển là một nền văn hóa hiện đại và thường xuyên được hiện đại hóa.
Hiện đại hóa gắn liền với chủ thể dân tộc với điều kiện lịch sử cụ thể của dân tộc ấy. Nói hiện đại là hiện đại một dân tộc, đối với một dân tộc, mang tính chất dân tộc. Hiện đại cũng có nghĩa là mang tính thời đại, biểu hiện xu thế phát triển của nhân loại. Vì vậy, dân tộc - hiện đại - đại chúng và nhân văn đi liền nhau.
Hiện đại hóa là cuộc vận động rộng lớn và sâu sắc của một quốc gia - dân tộc. Nó phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên, tiềm lực con người, tiềm lực kinh tế của dân tộc đó, đồng thời phụ thuộc vào trình độ trí tuệ, tinh thần nhạy bén, sáng tạo để hội nhập với thế giới xung quanh. Như vậy hiện đại hóa bằng cách nào, nhanh hay chậm, thành công hay thất bại phụ thuộc rất nhiều vào cách lựa chọn của dân tộc.
Một số dân tộc ở Nam Mỹ trước đây có tài nguyên phong phú, nhưng công nghệ lạc hậu đã lựa chọn con đường dựa vào xuất khẩu tài nguyên và sản phẩm sơ chế để thu ngoại tệ, rồi lại dùng ngoại tệ nhập sản phẩm tiêu dùng, nhập máy móc, tiện nghi, tạo ra một cuộc sống có vẻ như là hiện đại. Nhưng trước những cuộc khủng hoảng kinh tế, gốc rễ không bền chắc nên sụp đổ. Ngược lại các nước Nhật Bản, Hàn Quốc vốn trước đây lệ thuộc vào phương Tây đã nhận thức lại vấn đề rõ rệt hơn để cảm nhận một chân lý hàng thế kỷ họ đã để mất dần bản sắc văn hóa dân tộc, họ đã cảm thấy rõ thất bại của Châu Phi và tự tìm ra con đường riêng của mình đó là: Chọn lọc những nhân tố hiện đại trong khoa học công nghệ của phương Tây kết hợp với bản sắc văn hóa bản địa.
Con đường hiện đại hóa của các nước đã cho chúng ta thấy, nền văn hóa mỗi dân tộc đều chứa đựng các giá trị văn hóa nhân loại, các giá trị chân, thiện, mỹ không chỉ là giá trị riêng của từng dân tộc mà ngày càng trở thành giá trị chung của loài người. Tuy vậy, tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ không xóa được biên giới quốc gia - dân tộc, không thể công nghệ hóa được mọi bản sắc văn hóa. Tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ chỉ làm cho nền văn minh các dân tộc xích lại gần nhau, còn bản sắc văn hóa thì vẫn là riêng biệt.
Bản sắc văn hóa dân tộc được tôi luyện, đúc kết qua các thế hệ nối tiếp nhau trong lịch sử, như dòng phù sa bồi tụ những gì tinh túy nhất làm nên sức sống trường tồn của dân tộc. Tất cả các quốc gia hiện nay đều chú trọng nghiên cứu di sản văn hóa của dân tộc mình, họ ý thức được rằng nếu không đề cao bản sắc văn hóa dân tộc thì tính đa đạng của văn hóa thế giới sẽ bị cạn kiệt do sự lai căng, pha tạp của các nền văn hóa.
Tuy nhiên chúng ta cũng nhận thấy trong văn hóa dân tộc có nhiều yếu tố bảo thủ, níu kéo văn hóa trở về với quá khứ, làm cho văn hóa dân tộc khó thích nghi với thời đại mới. Xu hướng bảo thủ có mặt tích cực là tạo ra khả năng tự vệ, rào chắn có hiệu quả các cuộc xâm lăng văn hóa, nhưng bảo thủ sẽ dẫn tới loại trừ các yếu tố tích cực, hiện đại của văn hóa từ bên ngoài tác động vào.
Vì vậy, phải đứng vững trên quan điểm phủ định biện chứng để kế thừa có chọn lọc, loại trừ yếu tố lạc hậu, bổ sung yếu tố mới, tiến bộ, phù hợp với sự phát triển của cuộc sống. Yếu tố hiện đại giúp văn hóa truyền thống thích nghi với sự phát triển, đồng thời nó đáp ứng được nhu cầu văn hóa ngày càng tăng lên của dân tộc. Bản sắc văn hóa dân tộc phải đứng vững trên đôi chân của mình để tiếp nhận các yếu tố hiện đại, làm cho các yếu tố hiện đại gia nhập và trở thành yếu tố văn hóa truyền thống./.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Dân tộc điện tử ngày 2.8.2013
Bài liên quan
- Thực trạng trải nghiệm định kiến giới của nữ sinh viên Hà Nội và một số khuyến nghị
- Đầu tư cơ sở vật chất tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong giai đoạn hiện nay
- Xây dựng đội ngũ tình nguyện viên tại Trung tâm Thông tin khoa học - Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong công tác xử lý tài liệu hiện nay
- Tăng cường nguồn lực tài chính cho chuyển đổi xanh ở Việt Nam
- Tăng cường quản lý công chức cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh ở Đông Nam Bộ hiện nay
Xem nhiều
-
1
Một số giải pháp xử lý thông tin giả, sai lệch, xuyên tạc tác động đến dư luận xã hội ở Việt Nam hiện nay
-
2
Vai trò của cấp ủy cơ sở tại tỉnh Điện Biên trong thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021-2025: thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng
-
3
Nâng cao hiệu quả quản lý thông tin hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông trên báo mạng điện tử Việt Nam
-
4
Quản trị truyền thông tiếp thị tích hợp của các trung tâm đào tạo công nghệ thông tin tại Việt Nam
-
5
Giải pháp nâng cao chất lượng thông tin về chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào dân tộc thiểu số trên báo mạng điện tử ở Việt Nam hiên nay
-
6
Quảng bá di sản văn hóa phi vật thể trên các kênh truyền thông số: Đặc trưng và những yêu cầu đặt ra
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Diễn ngôn truyền thông về “Vành đai, Con đường”: So sánh giữa Trung Quốc và Đông Nam Á
Kể từ khi được khởi xướng vào năm 2013, Sáng kiến “Vành đai, Con đường” (BRI) đã trở thành một trong những chủ đề quan trọng trong quan hệ quốc tế và diễn ngôn truyền thông toàn cầu. Nghiên cứu cho thấy, truyền thông Trung Quốc chủ yếu thông qua các kênh chính thống và sự kiện truyền thông được hoạch định để xây dựng một diễn ngôn tích cực, nhất quán, nhấn mạnh các khía cạnh “hợp tác cùng thắng”, “cộng đồng chia sẻ tương lai” và các thành tựu kinh tế vĩ mô. Ngược lại, truyền thông Đông Nam Á thể hiện một bức tranh phức tạp và đa chiều, với thái độ dao động từ ủng hộ đến hoài nghi, dè dặt. Các chủ đề chính bao gồm lợi ích kinh tế cụ thể, tác động xã hội tại địa phương, các vấn đề về chủ quyền, bẫy nợ và sự cân bằng quan hệ với các cường quốc khác. Từ những phân tích này, bài viết đưa ra một số gợi mở chiến lược cho báo chí, truyền thông Việt Nam trong việc xây dựng một diễn ngôn độc lập, cân bằng và hiệu quả về BRI nhằm phục vụ tốt nhất lợi ích quốc gia.
Thực trạng trải nghiệm định kiến giới của nữ sinh viên Hà Nội và một số khuyến nghị
Thực trạng trải nghiệm định kiến giới của nữ sinh viên Hà Nội và một số khuyến nghị
Bài viết trình bày kết quả nghiên cứu thực trạng trải nghiệm định kiến giới của nữ sinh viên Hà Nội trên cơ sở kết quả nghiên cứu chọn mẫu với cỡ mẫu là 468 sinh viên thuộc 3 trường Đại học tại Hà Nội (Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Giao thông vận tải, Học viện Báo chí Tuyên truyền). Kết quả nghiên cứu cho thấy, sinh viên nữ vẫn thường xuyên đối mặt với định kiến giới trong các môi trường khác nhau, trong đó, định kiến giới trên môi trường mạng xã hội (MXH) là phổ biến nhất, tiếp đến là môi trường sống, môi trường học đường, truyền thông đại chúng. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc cần phải tiếp tục có giải pháp phù hợp dần xoá bỏ định kiến giới trong các môi trường xã hội, đặc biệt môi trường MXH.
Đầu tư cơ sở vật chất tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong giai đoạn hiện nay
Đầu tư cơ sở vật chất tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong giai đoạn hiện nay
Trên thực tế, việc thường xuyên duy tu, sửa chữa tài sản, đầu tư cơ sở vật chất mới tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền (Học viện) trong thời gian qua đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu đặt ra, là yếu tố quan trọng góp phần xây dựng và phát triển Học viện cũng như thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao. Các quy định về đầu tư, quản lý tài sản đã được quan tâm nghiên cứu, xây dựng, sửa đổi để phù hợp với quy định chung của Nhà nước và Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; các biện pháp cụ thể để tăng cường đầu tư, tu chỉnh tài sản cũng liên tục được bổ sung, hoàn thiện, hướng tới việc sử dụng tài sản đúng công năng, tiết kiệm, hiệu quả và minh bạch. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác đầu tư cơ sở vật chất trong thời gian qua của Học viện cũng đã bộc lộ một số bất cập. Bài viết trình bày thực trạng kết quả đầu tư cơ sở vật chất tại Học viện thời gian qua, nêu những vấn đề còn tồn tại và đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới công tác đầu tư cơ sở vật chất, phục vụ chiến lược phát triển Học viện trong giai đoạn mới.
Xây dựng đội ngũ tình nguyện viên tại Trung tâm Thông tin khoa học - Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong công tác xử lý tài liệu hiện nay
Xây dựng đội ngũ tình nguyện viên tại Trung tâm Thông tin khoa học - Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong công tác xử lý tài liệu hiện nay
Bài viết phân tích sự cần thiết của việc xây dựng đội ngũ tình nguyện viên tại các thư viện. Cung cấp thông tin về hoạt động tình nguyện viên tại các thư viện trên thế giới và Việt Nam. Sự cần thiết xây dựng đội ngũ tình nguyện viên tại Trung tâm Thông tin khoa học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Đồng thời, bài viết đưa ra một số giải pháp xây dựng đội ngũ tình nguyện viên tại Trung tâm Thông tin khoa học trong công tác xử lý tài liệu.
Tăng cường nguồn lực tài chính cho chuyển đổi xanh ở Việt Nam
Tăng cường nguồn lực tài chính cho chuyển đổi xanh ở Việt Nam
Trong bối cảnh toàn cầu đang đối mặt với những thách thức ngày càng nghiêm trọng từ biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên và ô nhiễm môi trường, chuyển đổi xanh đã trở thành xu thế phát triển tất yếu, được nhiều quốc gia lựa chọn nhằm hướng tới tăng trưởng, phát triển bền vững, bao trùm và bảo vệ môi trường sinh thái. Tại Việt Nam, Đảng và Nhà nước xác định rõ phát triển xanh là một trong những định hướng chiến lược trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2030 và thể hiện cam kết mạnh mẽ qua việc tham gia các sáng kiến toàn cầu. Để thực hiện thành công chuyển đổi xanh, một trong các yếu tố then chốt là phải bảo đảm nguồn lực tài chính đủ, ổn định và hiệu quả. Tài chính không chỉ là điều kiện vật chất để triển khai các chương trình, dự án xanh, mà còn là công cụ định hướng hành vi kinh tế - xã hội, nâng cao năng lực quản trị môi trường và thúc đẩy đổi mới sáng tạo xanh. Trong khi nhu cầu tài chính cho chuyển đổi xanh ngày càng gia tăng, khả năng huy động và sử dụng nguồn lực tại Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, đặt ra yêu cầu cần có những giải pháp nhằm tăng cường nguồn lực tài chính phục vụ mục tiêu phát triển xanh, bền vững trong thời gian tới.
Bình luận