Triết học về truyền thông và vai trò của nó đối với truyền thông trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0
1. Sự hình thành lý thuyết của chủ nghĩa tự do báo chí truyền thông
Lý thuyết của chủ nghĩa tự do về báo chí truyền thông, hay còn được gọi là lý thuyết tự do báo chí từ khi xuất hiện đến nay, luôn được coi là hạt nhân phản ánh quan điểm của chủ nghĩa tự do được hình thành từ thế kỷ XVII - XIX. Đại biểu tư tưởng của chủ nghĩa tự do báo chí truyền thông được khởi nguồn từ R.Descartes, nhà triết học Pháp và nhà tư tưởng người Anh J.Milton thế kỷ XVII; luật gia J.Erskine người Anh và T.Jefferson chính trị gia người Mỹ thế kỷ XVII.
Đến thế kỷ XIX, nhà triết học đồng thời là chính khách người Anh, J.S.Mill với tác phẩm “Bàn về tự do”, đã tiếp tục củng cố cho lý thuyết của chủ nghĩa tự do báo chí truyền thông. Cốt lõi trong lý thuyết của chủ nghĩa tự do báo chí được coi là sự thể hiện sứ mạng về “quyền tự nhiên” của con người. Đây cũng chính là vũ khí tư tưởng của giai cấp tư sản trong giai đoạn cách mạng chống chế độ phong kiến. Để thực hiện tôn chỉ này, lý thuyết của chủ nghĩa tự do báo chí truyền thông cho rằng cần phải hình thành một “thị trường tự do về tư tưởng” để có được sự kiểm soát một cách hiệu quả nhất.
Đến giữa thế kỷ XX, tư tưởng của những đại biểu trên đây là cơ sở để đưa đến “Bốn lý thuyết về báo chí” (Four Theories of the Press)(1) xuất bản năm 1956 (Đại học Illinois) của nhóm học giả báo chí người Mỹ. Quan điểm của các tác giả đã tập trung nghiên cứu về bốn phương thức lý thuyết của các phương tiện truyền thông, trong đó có lý thuyết về chủ nghĩa toàn trị; lý thuyết về chủ nghĩa tự do; lý thuyết về trách nhiệm xã hội; và mô hình lý thuyết của chủ nghĩa cộng sản Liên Xô.
Trong một thời gian dài, cuốn sách cùng với ba tác giả của nó đã trở nên nổi tiếng trên phạm vi thế giới, và được cộng đồng học thuật công nhận là cuốn sách đã mở ra tiền lệ của báo chí so sánh, lấp đầy những khoảng trống trong ngành truyền thông đại chúng với những nội dung làm rõ mối quan hệ giữa truyền thông và xã hội. Nó không chỉ được sử dụng làm sách giáo khoa ở các nước như Hoa Kỳ và Anh, mà hơn nữa nó còn gây ra những cuộc thảo luận và tranh luận sôi nổi trong lĩnh vực báo chí truyền thông đương thời.
Cuốn sách giành được sự đánh giá cao của lãnh đạo Hoa Kỳ. Đặc biệt, cuốn sách còn được nhận huy chương của Hiệp hội Nhà báo Hoa Kỳ năm 1962, và được dịch sang nhiều ngôn ngữ. Tuy nhiên, cho đến nay trong thời đại của cách mạng công nghiệp 4.0, với nền tảng của công nghệ thông tin ngày càng phát triển, đã có nhiều ý kiến đánh giá lại về tư tưởng đã từng một thời trở thành kinh điển trong lĩnh vực báo chí và truyền thông của lý thuyết về tự do báo chí này. Tuy nhiên, một điều cốt lõi không thay đổi trong lý thuyết của chủ nghĩa tự do báo chí truyền thông ở chỗ, thực chất vẫn là công cụ của giai cấp tư sản đã được hình thành kể từ thế kỷ XVII, đang tiếp tục chi phối đời sống tinh thần xã hội trong thế giới đương đại.
2. Quan điểm triết học của trường phái Frankfurt về truyền thông
2.1. Cơ sở hình thành quan niệm của trường phái Frankfurt về truyền thông
Mặc dù những thành tựu của trường phái Frankfurt về triết học, xã hội học, khoa học chính trị và tâm lý học luôn thu hút sự chú ý trên toàn thế giới, song những đóng góp của họ trong Truyền thông học lại ít được xem xét và nghiên cứu. Tuy nhiên, quan điểm triết học về truyền thông của trường phái Frankfurt thực sự đáng được chú ý chính là bởi sự tập trung của nó vào những nội dung nghiên cứu về kiểm soát truyền thông đối với xã hội. Những đại biểu của trường phái Frankfurt về truyền thông học cho rằng ở những nước công nghiệp phát triển, truyền thông đại chúng đã trở thành ý thức hệ mang tính hợp pháp để bảo vệ cho tính hợp pháp của quyền lực chính trị. Thông qua sự thao túng của mình, truyền thông đại chúng không chỉ cực đoan phủ định nền văn hóa xã hội, thậm chí còn loại bỏ ngay từ mầm mống sự ảnh hưởng của văn hóa gia đình tới những đứa trẻ. Kết cục đã đưa đến con người không còn tính đa dạng phong phú về tính cách, mà trái lại đã hình thành những con người “một chiều”.
Chính trên cơ sở đó, trong nghiên cứu của trường phái Frankfurt, Truyền thông học được quan niệm là một lĩnh vực bao gồm nội dung rộng lớn và phản ánh sâu rộng mọi phương diện của đời sống xã hội. Qua các giai đoạn khác nhau, các nhân vật của trường phái Frankfurt như Walter Benjamin, Theodor W.Adorno, Max Horkheimer, Herbert Marcuse, Leo Lowenthal, v.v,.. đều đi vào phân tích, phê phán về sự ảnh hưởng của các loại hình truyền thông (đặc biệt là phim ảnh và các chương trình phát sóng, v.v..) cũng như các ngành công nghiệp văn hóa khác tới đời sống xã hội hiện thực. Tuy nhiên, lý luận truyền thông của trường phái Frankfurt được tập trung nghiên cứu trong hai phương diện về sự thống trị xã hội của “thể chế truyền thông” và “sản phẩm truyền thông” đối với xã hội và con người.
Tuy nhiên, các nhà lý luận phê phán của trường phái Frankfurt về truyền thông thường không muốn tách biệt truyền thông khỏi các yếu tố khác đã hình thành nên hệ thống tổng thể của nó và gọi đây là “Lý thuyết phê phán”(2) nói chung, và cố gắng phân biệt giữa “Lý thuyết phê phán” với “Lý thuyết thực chứng” của truyền thông xét về phương pháp và mục đích thực hiện việc tìm hiểu về xã hội và con người. Cụ thể, Horkheimer cho biết, lý thuyết phê phán không chỉ “tập trung vào các mục tiêu mà lối sống hiện tại được thiết lập, mà còn chú ý đến con người và mọi tiềm năng của con người. Mục tiêu của nó là giải phóng con người khỏi chế độ nô lệ”(3). Cùng với mục tiêu nhận thức mà Horkheimer nêu trên, Brian Fay đã phân tích và cho rằng, lý thuyết phê phán chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử - xã hội để khảo sát có phê phán đời sống hiện trạng của xã hội, qua đó làm rõ những tệ nạn và những sự nguy hại, trên cơ sở đó đi vào cải tạo và điều chỉnh các quy phạm xã hội.
Mặc dù vậy, lý thuyết phê phán luôn có điểm chung khi nhấn mạnh đến việc duy trì cách tiếp cận mang tính siêu thực, thậm chí thể hiện lập trường và thái độ đối lập với hiện thực. Vì vậy, sự quan tâm về các vấn đề của xã hội đó phải là phương pháp “lý tưởng” cho việc đi vào tìm cách giải quyết mọi sự bất bình đẳng, cũng như về sự xung đột văn hóa hay sự xung đột về mặt tâm lý giữa các xã hội khác nhau. Qua nghiên cứu phê phán truyền thông, các nhà lý thuyết của trường phái Frankfurt luôn nhấn mạnh đến việc sử dụng phương pháp phê phán để đi sâu phân tích và làm lộ rõ bản chất của xã hội phương Tây “bệnh hoạn” thông qua quá trình kiểm tra, đánh giá ngành công nghiệp truyền thông.
Theo quan điểm của trường phái Frankfurt, sự thống trị của truyền thông thể hiện chủ yếu ở một số khía cạnh về “sự bị thống trị của truyền thông”, tức là “ai thống trị truyền thông”; “truyền thông thống trị cái gì”; “thống trị truyền thông thế nào”; và “hậu quả của sự thống trị” ra sao;… Nói cách khác, sự thống trị của nhà nước đối với truyền thông là tiền đề và phương tiện mà nhà nước tiến hành quản trị xã hội. Hơn nữa, đó cũng chính là phương thức của nhà nước thực thi quản trị xã hội. Từ đó cho thấy, lý luận về “sự can thiệp của nhà nước” chính là xuất phát điểm trong nghiên cứu của trường phái Frankfurt về cái được gọi là sự “thống trị” của truyền thông trong xã hội.
2.2. Truyền thông với tính cách là công cụ quyền lực của nhà nước
Cũng với cách tiếp cận nêu trên, ngay từ những năm 30 thế kỷ XX, khi nghiên cứu nguyên nhân gốc rễ của chủ nghĩa phát xít, trường phái Frankfurt đã bắt đầu từ việc tìm hiểu vai trò quyền lực chính trị của truyền thông. Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Marcuse và Habermas đưa ra quan điểm về vai trò của truyền thông đối với sự phát triển mới của các nước tư bản chủ nghĩa. Học thuyết về nhà nước của trường phái Frankfurt có thể được chia thành hai loại, cụ thể là, lý thuyết nhà nước ở thời kỳ cấp tiến của giai đoạn trước và lý thuyết trạng thái thực tế của giai đoạn sau.
Lý thuyết nhà nước ở thời kỳ cấp tiến được đại diện bởi Horkheimer và Pollock, đã tin rằng kể từ khi chuyển đổi từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa tư bản nhà nước, có thể có khả năng trở thành một quốc gia dân chủ, nhưng xét về thực tế khác nhau của nó, thì thực chất là quốc gia “độc tài” dựa trên sức mạnh thống trị của truyền thông. Đặc điểm nổi bật nhất của nó là thông qua việc thỏa mãn đời sống quốc dân ở mức độ nhất định, nó đề cao “sự phục tùng tự nguyện” của người dân vào chính trị thông qua sự thống trị của truyền thông mà thôi.
Sau chiến tranh, trong một môi trường xã hội tương đối ổn định, Marcuse và Habermas chú ý nhiều hơn đến thực tế của các nước tư bản và sau đó đưa ra một thực tế rõ ràng khách quan hơn học thuyết về nhà nước gắn với vai trò quyền lực của truyền thông. Trong quan điểm của Marcuse, sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, chủ nghĩa độc tài nhà nước không thể tồn tại được, mà thay vào đó là nhà nước phúc lợi, tức là kiểu nhà nước luôn phải thông qua việc nâng cao mức sống của dân chúng, đồng thời phải điều tiết mọi phương diện để nâng cao cuộc sống dân chúng. Nói cách khác, lý thuyết về nhà nước giai đoạn chủ nghĩa tư bản hậu hiện đại phải đạt tới sự quản trị mềm dẻo. Theo đó, trong quan điểm của mình, Habermas lại tiến thêm một bước trong việc đề xuất quan niệm về “nhà nước hiện đại”, khi cho rằng, phải tăng cường vai trò điều tiết kinh tế của nhà nước, đồng thời phải biến hoạt động điều tiết kinh tế thành hoạt động cơ bản của nhà nước, để trên cơ sở đó tăng cường chức năng xã hội của nhà nước.
Nhìn vào lý thuyết của trường phái Frankfurt trong hai giai đoạn này cho thấy, với sự phát triển nhanh chóng lý thuyết về nhà nước đã đưa đến các quan điểm khác nhau cả về tính chất và phương thức trong sự quản lý của nhà nước. Song điểm chung trong quan điểm của các đại biểu trong trường phái Frankfurt ở giai đoạn này đều cho rằng không thể hoài nghi được về vai trò điều tiết của nhà nước đối với xã hội phải dựa trên vai trò của truyền thông. Bởi vậy, nhà nước phúc lợi, hay nhà nước độc tài đều có sự hợp lý khác nhau xét về phương thức quản lý khác nhau đối với xã hội và sự hợp lý đó thể hiện ra sao đều không thể bỏ qua việc nắm trong tay công cụ truyền thông cho việc kiểm soát tổng thể quản trị nhà nước đối với xã hội.
Với quan điểm trên đây về nhà nước, theo đó trường phái Frankfurt tin rằng trong xã hội tư bản phát triển hiện đại, sự kiểm soát của nhà nước đối với xã hội bằng các phương tiện truyền thông không những không suy yếu mà ngày càng được tăng cường hơn nữa. Horkheimer và Adorno nhấn mạnh: “Hệ thống phát thanh truyền hình mặc dù là doanh nghiệp tư nhân đi chăng nữa, song thực chất nó luôn đại diện cho toàn bộ sức mạnh của nhà nước ....”(4).
Như vậy, chức năng của truyền thông, luôn thể hiện sức mạnh của quốc gia. Trên tinh thần đó, Marcuse đã bác bỏ lý thuyết về “thông tin và truyền thông giải trí đơn thuần”, và cho rằng: “Mọi người có thể thực sự phân biệt các phương tiện thông tin đại chúng như các công cụ thông tin và giải trí đơn thuần hay không? Hay đó chính là công cụ cho sự hướng dẫn tư tưởng và kiểm soát chính trị tồn tại trong xã hội hiện đại”(5). Như vậy, mặc dù các phương tiện thông tin đại chúng tưởng như đơn thuần là một quá trình phổ biến thông tin và giải trí cho công chúng, song đó lại chính là một quá trình thể hiện sức mạnh của nhà nước đối với xã hội. Nói cách khác, truyền thông chính là công cụ quyền lực, được kiểm soát bởi nhà nước.
2.3. Truyền thông với tính cách là công cụ và đồng thời là bản thân của hình thái ý thức thống trị trong xã hội công nghiệp
Theo quan điểm của trường phái Frankfurt cấp tiến, phương tiện truyền thông không chỉ là chiếc “loa phóng thanh” và công cụ quyền lực nhà nước, mà còn là công cụ được nhà nước sử dụng để duy trì hình thái ý thức thống trị - ý thức hệ, công cụ truyền bá ý chí của nhà cầm quyền và thậm chí chính nó là một ý thức hệ trực tiếp thực hiện ý thức, nhằm bảo vệ cho sự thống trị của nhà nước. Theo quan điểm của trường phái Frankfurt, truyền thông không chỉ là công cụ của hình thái ý thức, mà bản thân nó cũng chính là hình thái ý thức.
Ở đây, phương tiện truyền thông với tư cách là một bộ phận của khoa học kỹ thuật, trong đó “khoa học kỹ thuật là hình thái ý thức”, bởi vậy bản thân truyền thông luôn thể hiện vai trò hình thái ý thức của nó. Quan điểm này đã trải qua một quá trình phát triển. Nó bắt đầu được nêu lên bởi Horkheimer, Adorno, sau đó được phổ biến rộng rãi bởi Marcuse, và sau cùng Habermas đã hệ thống hoá lý thuyết này, làm cho nó trở thành lý thuyết được biết đến khá rộng rãi. Tuy nhiên, trong số họ, Marcuse và Adorno lại luôn phê phán về mặt trái của khoa học và công nghệ, cũng tức là mặt trái của phương tiện truyền thông.
Trong hình thái ý thức phê phán của Marcuse, bao hàm trong đó không ít hình thái ý thức về truyền thông. Thậm chí có thể thấy, cũng trong quan điểm của Marcuse, hệ thống phương tiện truyền thông chính là đối tượng điển hình của khoa học công nghệ. Theo quan điểm của Marcuse, nếu kỹ thuật là cái trừu tượng, thì hệ thống phương tiện truyền thông lại là cái cụ thể, cái thực tại.
Trong tác phẩm “Con người một chiều”, Marcuse đã tiến hành phân tích tường tận về một xã hội công nghiệp đã hình thành nên những con người không có được nhu cầu thực và tư duy thực của bản thân. Đó cũng là xã hội đã áp chế nguyện vọng phong phú của cá nhân con người. Nói cách khác, đó cũng chính là xã hội đã hình thành nên tư duy và hành vi một chiều của con người.
Ngoài ra, cũng theo sự phân tích của Marcuse, sự một chiều của tư duy do sự thao túng của truyền thông đại chúng đã dẫn đến sự đánh mất tính đa dạng của văn hóa, cũng như biến ngôn ngữ chỉ còn lại chức năng thao tác đơn thuần của tư duy một chiều, nghĩa là đã đẩy văn hóa và ngôn ngữ đến chỗ đánh mất chức năng thực sự của hình thái ý thức của nó và thay vào đó, khoa học kỹ thuật lại chiếm chức năng hình thái ý thức của văn hóa và ngôn ngữ. Như vậy, khoa học kỹ thuật qua vai trò của truyền thông đại chúng đã trở thành phương tiện thống trị con người.
Như vậy, mặc dù các đại biểu đều đề cập đến các phương tiện thông tin đại chúng của các xã hội công nghiệp phát triển như là đối tượng đại diện và nội dung quan trọng của phê bình về tư tưởng khoa học và công nghệ, song trong quan điểm của họ, truyền thông và phương tiện truyền thông lại có hàm ý khác nhau. Sự khác nhau này xuất phát từ quan điểm khác nhau về hình thái ý thức khoa học - kỹ thuật. Đối với Adorno, sở dĩ khoa học kỹ thuật trở thành ý thức hệ là bởi vai trò tham gia của bản thân nó trong kiểm soát quyền lực nhà nước. Hơn nữa, bản thân các phương tiện truyền thông tạo nên nền văn hóa, song văn hóa lại luôn nằm dưới quyền kiểm soát tổng thể của đất nước, để trở thành một công cụ bảo vệ tính hợp pháp của quy tắc quản lý của đất nước và do đó trở thành hình thái ý thức, hay còn gọi là ý thức hệ.
Về phía Marcuse, vấn đề này luôn được Marcuse tin rằng các phương tiện truyền thông đã trở thành một ý thức hệ, không chỉ đơn thuần vì công nghệ đang được kiểm soát, mà thực chất là ở chỗ nó luôn được thiết kế trước theo ý chí và nhu cầu của các nhà cầm quyền. Do đó, các phương tiện truyền thông trở thành ý thức hệ, có nguyên nhân bên ngoài là sự kiểm soát tổng thể của đất nước và lý do bên trong là tính tiên nghiệm của chính sự thống trị đó.
Vậy lý do tại sao các phương tiện truyền thông sẽ trở thành hình thái ý thức. Đây là điều được trường phái Frankfurt lý giải chủ yếu là bởi vai trò của các phương tiện truyền thông, cũng như là phương tiện kiểm soát các chức năng của con người. Các đại biểu của trường phái Frankfurt thậm chí còn cho rằng, trong các xã hội công nghiệp phát triển, truyền thông đại chúng đã trở thành sức mạnh thao túng và kiểm soát tâm thức con người. Adorno trong cuốn “Hình thái ý thức” (1964) đã nhấn mạnh, chức năng đầu tiên của hình thái ý thức nằm trong sự truyền bá và thao túng ý thức của đại chúng. Theo đó, “điều thể hiện vai trò thao túng tới đời sống ý thức xã hội này luôn nằm ở toàn bộ ngành công nghiệp văn hóa, mà ở đây là rạp chiếu phim, rạp hát, ngành in ấn, xuất bản, phát thanh, truyền hình, nhiều hình thức văn học và nhiều ấn phẩm sách báo, đĩa nhạc….”(6). Thông qua sự thao túng đó, các tổ chức truyền thông đã trở thành công cụ hợp pháp của chính trị.
Bản thân truyền thông đại chúng luôn được thực hiện thông qua nội dung, ngôn ngữ và quá trình truyền bá để đạt tới mục tiêu nhất trí hóa và quy phạm hóa toàn bộ đời sống ý thức xã hội. Trường phái Frankfurt cho rằng “sự nhất trí hóa” và “quy phạm hóa” trong đời sống văn hóa, tinh thần xã hội, chính là quyền uy của hình thái ý thức mà cá nhân và cả xã hội phải thừa nhận và phục tùng. Hơn nữa, hình thái ý thức thông qua truyền thông đại chúng đã trở thành sức mạnh không chỉ kiểm soát suy nghĩ của mọi người mà còn thâm nhập vào cấu trúc tâm lý của con người, làm thay đổi phương thức tư duy và quan niệm giá trị của con người. Như vậy, theo quan điểm của trường phái Frankfurt, hình thái ý thức có nguy cơ triệt tiêu thế giới nội tâm độc lập và tự do của mỗi cá nhân, để từ đó mỗi cá nhân đi đến chỗ hoàn toàn “tự nguyện” tuân theo sự thao túng và khống chế của hình thái ý thức.
Với những quan điểm của lý thuyết của chủ nghĩa tự do báo chí truyền thông, cũng như quan điểm trường phái Frankfurt về vai trò của truyền thông trên cho thấy, trong điều kiện của cách mạng công nghiệp lần thứ tư - thời đại 4.0, cùng với sự phát triển vô cùng đa dạng của phương tiện và hình thức truyền thông, việc thiếu sự kiểm soát sự bùng nổ của truyền thông cả về phương tiện và nội dung truyền thông, sẽ không chỉ dẫn đến việc con người có thể đánh mất sự kiểm soát tự chủ của bản thân mình và về phía xã hội sẽ tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến mất kiểm soát quyền lực chính trị của bất cứ quốc gia nào trên thế giới hiện nay./.
________________________
(1) Srebert. F.S.Peterson, T.B & Schramm, Four Theories of the Press, University of Illinois Press.1956, Chapter 2.
(2) Little John, Lý luận truyền thông, Trần Đức Dân (dịch), Nxb. Khoa học xã hội Trung Quốc, Bắc Kinh, 1999, tr.408.
(3) Horkheimer, Lý luận phê phán, Lý Tiểu Binh (dịch), Nxb. Trùng Khánh, Trùng Khánh, 1993, tr. 203-204.
(4) Horkheimer, Adorno, Phép biện chứng khai sáng, Hồng Bội Uất (dịch), Nxb. Trùng Khánh, Trùng Khánh, 1993, tr.150.
(5) Marcuse, Con người một chiều, Trương Phong (dịch), Nxb.Trùng Khánh, Trùng Khánh, 1993, tr.9.
(6) Horkheimer, Adorno, Phép biện chứng khai sáng, Hồng Bội Uất (dịch), Nxb. Trùng Khánh, Trùng Khánh, 1993, tr.140.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông tháng 01.2021
Bài liên quan
- Nhà báo đấu tranh chống tin giả trên mạng xã hội
- Một số vấn đề lý luận cơ bản về xây dựng và quản trị thương hiệu trực tuyến
- Báo chí thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội - vấn đề và giải pháp
- Đào tạo báo chí trong bối cảnh mới
- Vai trò của biên tập và yêu cầu luật hóa quy trình biên tập xuất bản hiện nay
Xem nhiều
- 1 Mạch Nguồn số 56: Dấu ấn về mùa thu lịch sử
- 2 Thông điệp về “khát vọng hoà bình” trong tranh cổ động Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
- 3 10 thành tựu nổi bật của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trong 10 năm (2014 – 2024)
- 4 Chuẩn cơ sở giáo dục đại học của Học viện Báo chí và Tuyên truyền: Đánh giá và giải pháp, kiến nghị
- 5 Giáo dục văn hoá doanh nghiệp cho người lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa - góc nhìn từ thực tiễn thành phố Hà Nội hiện nay
- 6 Quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới qua báo điện tử VietnamPlus
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Không thể xuyên tạc, phủ nhận thành tựu của Việt Nam trong việc bảo đảm và thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
Tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quan điểm xuyên suốt, nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Cá nhân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào; không ai có quyền xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quốc gia, dân tộc, lợi ích cộng đồng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Thế nhưng, thời gian qua, các báo cáo nhân quyền, tôn giáo của một số nước phương Tây thường xuyên có nội dung xuyên tạc, vu cáo “chính quyền Việt Nam giới hạn tự do tôn giáo”. Đây là sự bịa đặt, vu cáo trắng trợn hòng phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam. Vì vậy, việc làm rõ những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động về thành tựu của Việt Nam trong bảo đảm và thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Nhà báo đấu tranh chống tin giả trên mạng xã hội
Nhà báo đấu tranh chống tin giả trên mạng xã hội
Báo chí là kênh giữ vai trò chủ đạo trong việc định hướng dư luận xã hội, bác bỏ và ngăn chặn các dòng thông tin sai lệch, đặc biệt là tin giả từ mạng xã hội. Mỗi nhà báo là một chiến sĩ, vừa có nhiệm vụ truyền tải, dẫn dắt dòng thông tin thời sự đúng đắn, chính xác, bổ ích cho công chúng, vừa đấu tranh chống lại những tác động tiêu cực của tin giả, lành mạnh hóa môi trường thông tin.
Một số vấn đề lý luận cơ bản về xây dựng và quản trị thương hiệu trực tuyến
Một số vấn đề lý luận cơ bản về xây dựng và quản trị thương hiệu trực tuyến
(LLCT&TT) Mạng xã hội phát triển đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của mọi người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Khi cộng đồng mạng xã hội lớn mạnh cũng trở thành một “thế giới thu nhỏ”, tạo cơ hội cho doanh nghiệp phát triển thương hiệu của mình. Bên cạnh những ưu việt mà mạng xã hội mang lại cho thương hiệu như: gia tăng nhận thức về thương hiệu, tiết kiệm chi phí truyền thông, giúp khách hàng dễ dàng tương tác với thương hiệu hơn, thì việc quản trị danh tiếng thương hiệu trên mạng xã hội đang là vấn đề cấp thiết thu hút sự chú ý của nhiều nhà quản trị chiến lược truyền thông hiện đại. Bài viết này sẽ cung cấp những vấn đề lý luận cơ bản như khái niệm thương hiệu, tài sản thương hiệu cũng như hoạt động quản trị thương hiệu doanh nghiệp trực tuyến.
Báo chí thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội - vấn đề và giải pháp
Báo chí thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội - vấn đề và giải pháp
(LLCT&TT) Báo chí là loại hình phương tiện truyền thông đại chúng vô cùng quan trọng trong đời sống xã hội. Vai trò, tầm quan trọng của báo chí không chỉ là phản ánh đời sống xã hội qua việc thông tin nhanh nhất, chân thực nhất những vấn đề mang tính thời sự trong nước và quốc tế, là việc định hướng thông tin và dư luận xã hội mà còn có vai trò giám sát và phản biện xã hội. Trong bối cảnh đất nước ta đang đổi mới và hội nhập quốc tế mạnh mẽ để phát triển thì vai trò của báo chí trong việc thông tin, định hướng thông tin và giám sát, phản biện xã hội càng quan trọng hơn bao giờ hết. Bài viết góp phần làm sáng tỏ hơn một số vấn đề lý luận và thực tiễn của báo chí trong việc thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội như là một phương tiện, phương thức phát huy dân chủ XHCN và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trong bối cảnh mới.
Đào tạo báo chí trong bối cảnh mới
Đào tạo báo chí trong bối cảnh mới
(LLCT&TT) Khoa học công nghệ phát triển đã tác động mạnh mẽ đến đời sống xã hội, thay đổi thói quen, điều kiện tiếp nhận thông tin của công chúng và ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của báo chí. Sự thay đổi của báo chí trong môi trường số đã đặt ra nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề đào tạo nhà báo tại các cơ sở đào tạo báo chí chuyên nghiệp. Yêu cầu đặt ra đối với các cơ sở đào tạo báo chí là không chỉ tạo nguồn nhân lực báo chí thích ứng với yêu cầu mới mà còn đặt nền tảng để nguồn nhân lực thích ứng trong thời gian dài hơn do bối cảnh công nghệ thay đổi và phát triển rất nhanh.
Bình luận