Văn hóa doanh nhân trước hội nhập kinh tế quốc tế
Trong sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế đất nước, Đảng ta rất quan tâm đến văn hoá doanh nhân. UNESCO cũng khuyến cáo các quốc gia đang tập trung phát triển kinh tế rằng “Hễ nước nào tự đặt cho mình mục tiêu phát triển kinh tế mà tách khỏi môi trường văn hoá thì tiềm năng sáng tạo của nước đó sẽ bị suy yếu đi rất nhiều”. Vì vậy, muốn chấn hưng kinh tế phải chấn hưng văn hoá. Chấn hưng văn hoá là phát triển và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, là tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại làm giàu văn hoá dân tộc. Chấn hưng văn hoá trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay là phải biết gạn đục khơi trong văn hoá dân tộc, làm cho bản sắc văn hoá dân tộc trường tồn và toả sáng như là một giá trị đặc trưng để cùng giao lưu và hợp tác với các quốc gia và các dân tộc trên thế giới.
Đảng ta đã chỉ rõ: “Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội. Vừa là mục tiêu vừa động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”(1), và khẳng định một quan điểm lớn là: “Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”(2). Tư tưởng đó đang được hiện thực hoá trong tất cả các mặt hoạt động của đời sống kinh tế, văn hoá và xã hội ở nước ta hiện nay và “soi đường” cho các doanh nhân Việt Nam xây dựng văn hoá doanh nhân trong kinh doanh vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Hội nhập kinh tế quốc tế đẩy mạnh giao lưu văn hoá, các nhà kinh doanh chính là người tham gia trực tiếp vào quá trình giao lưu văn hoá nói chung và xây dựng văn hoá kinh doanh nói riêng. Vì vậy, vấn đề đặt ra cho đội ngũ doanh nhân Việt Nam phải là người giữ gìn, sáng tạo xây dựng và có trách nhiệm xã hội đối với phát triển văn hoá đất nước.
Đội ngũ doanh nhân Việt Nam ra đời trong thời kỳ đổi mới, thời kỳ phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá được xã hội tôn vinh là “những người chiến sỹ trên mặt trận kinh tế”. Ngay từ ngày đầu thành lập nước, ngày 13.10.1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho giới công thương và khẳng định vai trò to lớn của họ trong sự nghiệp kiến quốc. Người viết: “Giới công thương phải hoạt động để xây dựng một nền kinh tế, tài chính vững mạnh, thịnh vượng. Chính phủ, nhân dân và tôi sẽ tận tình giúp đỡ giới công thương trong công cuộc kiến thiết này... Nền kinh tế quốc dân thịnh vượng là cái sự kinh doanh của các nhà công thương nghiệp thịnh vượng”. Năm 2004, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định lấy ngày 13 tháng 10 hằng năm là “Ngày Doanh nhân Việt Nam”. Có thể khẳng định rằng: ngày nay, Đảng, Nhà nước và xã hội đã đặt đúng vị trí, vai trò của doanh nhân và coi họ là tầng lớp “tinh hoa” của xã hội đương đại trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là thừa nhận “tính nhiều chiều, nhiều cạnh của sự phát triển”, trong đó cạnh, chiều văn hoá có vai trò quan trọng. Tuy nhiên, giao lưu văn hoá và giữ gìn bản sắc văn hoá là vấn đề phức tạp nhất, có ý nghĩa to lớn trong kinh tế thị trường toàn cầu hoá hiện nay. Loại trừ những mặt trái của nó, kinh tế thị trường là sản phẩm tiến bộ đem lại thịnh vượng cho nhân loại mấy trăm năm qua và cũng có thể nói thị trường là sản phẩm tinh thần, một di sản văn hoá giá trị của nhân loại. Các nhà kinh doanh được nuôi dưỡng và phát triển trong môi trường kinh tế thị trường và chính họ đã làm giàu môi trường đó. Văn hóa là con người; thị trường có con người mà trước hết đội ngũ các nhà kinh doanh phải hội tụ phẩm chất kinh doanh bao gồm : Tài - Đức - Tâm.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của Việt Nam là sản phẩm của lịch sử đang còn ở giai đoạn sơ khai. Đội ngũ doanh nhân nước ta ra đời phần nhiều chưa có sự chuẩn bị từ thực tiễn thị trường, cho nên một bộ phận đã lệch chuẩn văn hoá kinh doanh. Hiện tượng kinh doanh còn chụp giật, lừa gạt, lợi dụng kẽ hở của pháp luật, thiếu kiến thức, bản lĩnh và thiếu một nền tảng văn hoá kinh doanh văn minh...đã gây khó khăn và thua thiệt cho đất nước trong hội nhập và làm mờ đi hình ảnh của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trên trường quốc tế.
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi xin trao đổi một vấn đề đang được xã hội và các nhà kinh doanh quan tâm, đó là những quan niệm về xây dựng văn hoá doanh nhân Việt Nam hiện nay.
Trước hết, văn hoá phải là nền tảng tinh thần của đội ngũ doanh nhân Việt Nam, là hành trang tinh thần để các doanh nhân tham gia cạnh tranh quốc tế. Vì vậy, họ cần phải trau dồi, tu luyện 4 tố chất sau:
Tâm, doanh nhân phải có tâm trong sáng; có ý chí và tâm huyết với công việc, với đất nước, coi kinh doanh là sự nghiệp, là ý nghĩa của cuộc sống. Tâm là lương tâm nghề nghiệp là tự trọng, là lịch sự trong quan hệ và tâm là biết quý trọng đồng tiền nhưng không phải vì tiền.
Trí, doanh nhân phải có trí tuệ là cơ sở của quản lý và tài năng. Nhà quản lý doanh nghiệp phải có kiến thức rộng, có tầm nhìn xa và là người luôn có ý tưởng sáng tạo.
Lực là sức bền cả về tinh thần lẫn thể lực, có khả năng chịu đựng được áp lực công việc và luôn làm việc với cường độ cao, có hiệu quả. Một tinh thần khoẻ khoắn trên một cơ thể cường tráng là tiền đề của thành công và cũng phải có một lực về kinh tế.
Văn hóa, văn là phong cách kinh doanh, đạo đức kinh doanh. Mỗi doanh nhân và doanh nghiệp phải tạo cho mình một thương hiệu một hình ảnh tốt đẹp trong xã hội. Văn còn là xử lý mối quan hệ con người và xã hội trong mọi lúc mọi nơi, mọi hoàn cảnh. Văn chính là tư tưởng và ý thức nhân văn của doanh nhân. Văn là sự hướng về các giá trị văn hoá của dân tộc.
Hai là, xét theo khía cạnh hành vi thì văn hoá doanh nhân phải thể hiện ở các phương diện chính như sau:
- Tuân thủ pháp luật: Tự giác tuân thủ pháp luật là một yếu tố của văn hóa, là giá trị văn hoá của doanh nhân trong cơ chế thị trường.
- Tôn trọng khách hàng: Khách hàng và đối tác là ân nhân là bạn của doanh nghiệp. Kinh doanh phải trung thực, coi trọng chữ tín và giữ vững lời hứa với khách hàng. Đây là yếu tố tạo nên giá trị văn hoá bền vững trong kinh doanh.
- Cạnh tranh kinh tế: Trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để tìm và giữ lợi thế kinh doanh. Cạnh tranh kinh tế phải đảm bảo nguyên tắc trung thực, không xâm phạm đến lợi ích của nhà nước, lợi ích của cộng đồng, quyền lợi hợp pháp của các doanh nghiệp khác và lợi ích của người tiêu dùng. Đây chính là cạnh tranh lành mạnh...
- Tôn trọng các nhà đầu tư: Nhà kinh doanh phải tôn trọng cổ đông của mình,tôn trọng các nhà đầu tư khác. Phải hành động trong khuôn khổ của điều lệ kinh doanh.
- Nhân văn là tôn trọng con người. Trong quản lý doanh nghiệp, doanh nhân luôn hướng về các giá trị tinh thần của người lao động và tạo môi trườngg tâm lý tích cực của tập thể những người lao động.
Ba là, cộng đồng doanh nhân Việt Nam nên có các lời thề. Đây là vấn đề còn mới mẻ ở nước ta. Trên thế giới nhiều quốc gia có lời thề doanh nhân. Các dịp hội họp, gặp gỡ họ đọc lời thề đó một cách trang trọng. Thí dụ: ở Mỹ, (theo NSND Đặng Nhật Minh đăng trên báo Sức khoẻ đời sống, số Tết ất Dậu) các doanh nhân Mỹ trong sinh hoạt và gặp gỡ bao giờ họ cũng bắt đầu bằng nghi thức: Hướng về quốc kỳ, đọc 10 lời thề “Thề trung thực trong công việc kinh doanh... Thề tất cả những gì làm đều đặt lợi ích nước Mỹ lên trên hết”.
Chúng tôi cho rằng, Hiệp hội doanh nhân Việt Nam hoặc Trung tâm văn hoá doanh nhân nên khởi xướng soạn thảo Lời thề doanh nhân Việt Nam. Và nếu được cộng đồng doanh nhân ủng hộ, nó sẽ là nền tảng tinh thần, trí tuệ và bản lĩnh doanh nhân Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế./.
________________________
(1) Kết luận Hội nghị TW 10 - Khoá IX, ĐCSVN
(2) Nghị quyết TW5 - Khoá VIII, ĐCSVN.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền số 5 (th¸ng 9+10)/2005
Bài liên quan
- Các yếu tố tác động đến sự hình thành dư luận xã hội
- Hiệp định Pari - thắng lợi có ý nghĩa chiến lược dẫn đến đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
- Tăng cường giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên trong bối cảnh hiện nay
- Quyền tiếp cận thông tin cho đồng bào dân tộc thiểu số
- Khu vực duyên hải miền Trung thực hiện chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển và thích ứng với biến đổi khí hậu
Xem nhiều
- 1 Thông báo tuyển sinh Chương trình Cử nhân quốc tế Quảng cáo, Quan hệ công chúng và Thương hiệu năm 2024
- 2 Các yếu tố tác động đến sự hình thành dư luận xã hội
- 3 Vấn đề thu phí trên báo mạng điện tử
- 4 Phát huy giá trị đạo đức để khơi dậy động lực cống hiến và khát vọng thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nhân Việt Nam
- 5 Mô hình Hội đồng trường đại học trên thế giới và những khó khăn khi áp dụng tại Việt Nam
- 6 Podcast - biểu tượng sức mạnh của phát thanh hiện đại
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Học viện Báo chí và Tuyên truyền: Tưng bừng Ngày hội Tư vấn Tuyển sinh - Hướng nghiệp - Việc làm "AJC OPEN DAY - JOB FAIR 2024"
Sáng 07/4/2024, Học viện Báo chí và Tuyên truyền tưng bừng tổ chức Ngày hội Tư vấn Tuyển sinh - Hướng nghiệp - Việc làm "AJC OPEN DAY - JOB FAIR 2024". Đây là cơ hội để học sinh THPT có thể cập nhật thông tin nhanh chóng, đầy đủ và chính xác nhất về tất cả các ngành nghề đang được đào tạo tại Học viện. Sự kiện này còn tạo điều kiện để sinh viên tiếp cận với các nhà truyền thông, doanh nghiệp và nhà tuyển dụng uy tín trên cả nước để tìm hiểu sâu hơn những nhu cầu thực tế của các nhà tuyển dụng.
Các yếu tố tác động đến sự hình thành dư luận xã hội
Các yếu tố tác động đến sự hình thành dư luận xã hội
Dư luận xã hội (DLXH) là một hiện tượng xã hội đặc biệt thuộc lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội, nó phản ánh tồn tại xã hội và do tồn tại xã hội, tức khách thể của DLXH quy định. Tuy nhiên, các đặc điểm về mặt xã hội - nhân khẩu học và văn hóa, tâm lý,… của chủ thể DLXH cũng như môi trường chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, nơi DLXH diễn ra, đều tác động hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp đến quá trình hình thành, phát triển và biến đổi của DLXH. Do đó, những nhân tố tác động đến quá trình hình thành DLXH có thể khái quát thành ba nhóm: nhóm yếu tố thuộc về khách thể của DLXH; nhóm yếu tố thuộc về chủ thể của DLXH và nhóm yếu tố thuộc về môi trường xã hội.
Hiệp định Pari - thắng lợi có ý nghĩa chiến lược dẫn đến đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
Hiệp định Pari - thắng lợi có ý nghĩa chiến lược dẫn đến đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
Hội nghị Paris là cuộc đụng đầu ngoại giao tay đôi đầu tiên giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, kết thúc bằng Hiệp định Paris. Hiệp định Paris đã góp phần tạo nên bước ngoặt rất quan trọng trong cuộc kháng chiến của dân tộc ta, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, từng bước đi vào giải pháp, chấm dứt chiến tranh và can thiệp ở Việt Nam. Việc Mỹ buộc phải “cút” khỏi miền Nam đã mở ra cục diện chính trị và chiến trường thuận lợi để quân và dân ta tiến tới “đánh cho ngụy nhào” mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Tăng cường giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên trong bối cảnh hiện nay
Tăng cường giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên trong bối cảnh hiện nay
Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên là nội dung, biện pháp quan trọng của việc đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo để gắn kết dạy “chữ” với dạy “người”, đào tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao “vừa hồng”, “vừa chuyên” cho đất nước. Bài viết làm rõ vai trò của giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên; thực tiễn giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên với những điểm mạnh, hạn chế, nguyên nhân; đồng thời, đề xuất các biện pháp tăng cường giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên trong thời gian tới.
Quyền tiếp cận thông tin cho đồng bào dân tộc thiểu số
Quyền tiếp cận thông tin cho đồng bào dân tộc thiểu số
Nhằm bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của người dân, nhiều năm qua, Việt Nam đã quan tâm xây dựng và ban hành nhiều chính sách, quy định pháp luật đáp ứng kịp thời đòi hỏi của thực tiễn, trong đó, chú trọng quyền tiếp cận thông tin đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin cho người dân bằng những giải pháp đồng bộ, những chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước trên thực tế đã mang lại hiệu quả tích cực, góp phần phát huy, thúc đẩy vai trò của người dân, trong đó có cả các đồng bào dân tộc thiểu số trong các hoạt động xã hội và phát triển đất nước.
Bình luận