Bàn về năng lực tự học của sinh viên và đề xuất đối với giảng viên
1. Phần mở đầu
Nhiều nhà nghiên cứu giáo dục trong và ngoài nước rất quan tâm đến đề tài năng lực tự học và phát triển năng lực tự học nói chung và tự học tiếng Anh nói riêng theo nhiều cách tiếp cận khác nhau. Khi nói về học ngoại ngữ, sự tự chủ trong học tập và năng lực tiếng có mối quan hệ tích cực với nhau. Nếu người học có sự tự chủ cao thì khả năng sử dụng tiếng sẽ càng cao(1).
Sự tự chủ trong học tập đóng vai trò không hề nhỏ trong quá trình học ngoại ngữ bởi quá trình này là sự tích lũy tri thức và sự luyện tập không ngừng nghỉ theo thời gian. Thực tế đào tạo ngoại ngữ tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền cho thấy khối lượng kiến thức sinh viên cần học có thể là nhiều (12 tín chỉ đối với khối lý luận và 15 tín chỉ đối với khối nghiệp vụ). Do vậy, nếu sinh viên không dành thời gian tự học và tự điều chỉnh kế hoạch học tập của mình, sinh viên sẽ không thể đạt được kết quả như mong đợi.
Hơn nữa, sinh viên có năng lực tự học không chỉ liên quan trực tiếp đến kết quả học tập, rèn luyện năng lực nghề nghiệp ở trường mà còn ảnh hưởng quan trọng đến việc học tập suốt đời của mỗi người. Việc phát triển năng lực tự học là một đòi hỏi trong hoạt động giảng dạy khi sinh viên dần quen với việc đào tạo theo hệ thống tín chỉ.
Từ nhu cầu tìm hiểu về việc áp dụng các hoạt động nhằm nâng cao năng lực tự học và từ tình hình thực tiễn, tác giả đã tiến hành nghiên cứu với mục đích đánh giá các hoạt động giáo viên đưa ra để thúc đẩy năng lực tự học của sinh viên trong các học phần tiếng Anh theo góc nhìn của sinh viên, đồng thời tìm hiểu các thách thức mà giáo viên gặp phải khi tiến hành các hoạt động này.
2. Cơ sở lý luận
2.1. Năng lực tự học
Người học tự chủ (learner autonomy) là một khái niệm học tập hiện đại lấy tâm lý học nhận thức làm cơ sở lý luận xuất hiện vào giữa thế kỷ 20 ở các nước phương Tây. Sau đó không lâu, học tập tự chủ nhanh chóng trở thành đề tài hấp dẫn với những nhà nghiên cứu ngôn ngữ học ứng dụng, mở ra những vấn đề nghiên cứu trong dạy học ngôn ngữ. Người học tự chủ khi có được năng lực tự học. Vấn đề năng lực tự học trong học ngoại ngữ được các học giả nước ngoài chú ý đến từ rất sớm, họ đã làm rất nhiều nghiên cứu được thể hiện dưới nhiều góc nhìn khác nhau.
Trong nhiều nghiên cứu, việc tự học được gọi với nhiều cái tên khác nhau như self - learning, self - education, self - directed learning, self - instructed learning, learner autonomy hay autonomous learning. Tất cả những tên gọi trên đều hướng đến khái niệm học độc lập, không lệ thuộc hoàn toàn vào người dạy. Để tạo dựng và phát huy năng lực tự học, Dam đã thiết kế mô hình gồm 3 bước chính đó là lập kế hoạch, triển khai kế hoạch và đánh giá kế hoạch(2).
Trong mô hình này, người học được đặt làm trung tâm, đối thoại, thương lượng và thái độ cởi mở hợp tác giữa giáo viên và người học đóng vai trò quan trọng để hoạt động học tập đi đúng mục tiêu mà nhiệm vụ học tập đặt ra. Cụ thể hơn, một lớp học tự chủ sẽ trải qua các bước cụ thể hóa mục tiêu và mục đích các công việc triển khai; chọn phương pháp, loại nhiệm vụ và tài liệu theo mục tiêu đã đặt ra; tổ chức và triển khai các nhiệm vụ học tập; cuối cùng là chọn các tiêu chí đánh giá và áp dụng chúng. Mô hình của Dam chính là khung lý thuyết mà tác giả bám sát xuyên suốt nghiên cứu của mình.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Câu hỏi nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành đối với 80 sinh viên năm thứ 1 tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền nhằm tìm hiểu các hoạt động hỗ trợ mà giảng viên đưa ra để thúc đẩy, nâng cao năng lực tự học của sinh viên. Đây là những sinh viên mới thay đổi môi trường học, từ phổ thông trung học lên đại học. Do vậy, việc nghiên cứu, khảo sát để tìm ra đường hướng học tập tốt nhất cho các em là cần thiết. Qua những hoạt động mà giảng viên thực hiện trên lớp cùng với thái độ học tập của sinh viên tác giả thấy cần được làm rõ hai câu hỏi nghiên cứu sau:
- Nhận thức của sinh viên đối với việc tự học thông qua các hoạt động bổ trợ của giảng viên?
- Những thách thức mà giảng viên gặp phải khi tiến hành các hoạt động nâng cao năng lực tự học cho sinh viên?
Để tiến hành nghiên cứu, tác giả sử dụng công cụ nghiên cứu là bảng khảo sát và phỏng vấn nhanh. 10 giảng viên của Khoa Ngoại ngữ và 80 sinh viên lớp tín chỉ K42.18 và K42.29 đã tham gia vào nghiên cứu. 03 câu hỏi được thiết kế để thu thập thông tin từ phía người dạy, đó là:
- Thầy/ cô đánh giá mức độ tự học của sinh viên lớp mình đang giảng dạy?
- Thầy/ cô chia sẻ các hoạt động bổ trợ nhằm thúc đẩy tinh thần tự học của sinh viên?
- Những vấn đề các thầy/ cô gặp phải khi tiến hành các hoạt động bổ trợ này?
Sinh viên được trả lời bảng hỏi gồm 20 câu hỏi với 5 lựa chọn theo thang đo Likert (1= không bao giờ; 2= hiếm khi; 3= thỉnh thoảng; 4= thường xuyên; 5= luôn luôn).
Nội dung các câu hỏi xoay quanh ý kiến của sinh viên về cách thức khơi gợi khả năng tự học của mình thông qua các bài giảng trên lớp và bài tập được giao về nhà.
2.2. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
2.2.1. Hoạt động giáo viên đưa ra nhằm nâng cao năng lực tự học của sinh viên
Từ những câu hỏi ở bảng 1 ta có thể thấy kết quả khá tích cực ở giai đoạn lập khế hoạch. Với 39/80 sinh viên cho rằng, giảng viên luôn luôn giúp sinh viên xác định mục tiêu học tập (48,75%). Tuy nhiên, phần triển khai kế hoạch, tỷ lệ sinh viên cho rằng giảng viên hiếm khi khuyến khích sinh viên đọc sách báo bằng tiếng Anh và cho sinh viên tài liệu điện tử cũng như các địa chỉ website hữu ích còn khá cao (từ 10%-12%), tương đương với 8-10 sinh viên xác nhận. tương tự như vậy, giai đoạn hướng dẫn công cụ tự đánh giá quá trình tự học, 9-10 sinh viên trả lời giảng viên không bao giờ hoặc hiếm khi hướng dẫn các em tự đánh giá việc tự học của mình (11%-12%).

Như vậy, tổng hợp số liệu bảng 1 cho thấy ở giai đoạn nào của quá trình tự học, sinh viên cũng đánh giá tích cực việc giảng viên có những hoạt động bổ trợ, khơi gợi việc tự học cho sinh viên. Hoạt động được đánh giá cao nhất đó là giảng viên có giúp sinh viên tiếp cận được những tài liệu để tự học. Tuy nhiên, hoạt động mà sinh viên đánh giá thấp, đó là việc giúp sinh viên có thể tự đánh giá quá trình tự học bên ngoài nhà trường.
Chuyển sang các hoạt động cụ thể trên lớp được tác giả tổng hợp ở bảng 2. Đây là các hoạt động bổ trợ giúp sinh viên thúc đẩy năng lực tự học, ví dụ như sinh viên được hoạt động nhóm, sinh viên được tham gia vào quá trình đánh giá, nhận xét lẫn nhau…

Bảng tổng hợp cho thấy, không có ghi nhận nào ở thang đo từ câu hỏi 9 đến câu 16 ở lựa chọn 1 và từ câu 14 đến 16 ở lựa chọn 2, nhưng có khoảng 6-8 sinh viên tương đương 7,5%-10% số sinh viên cho rằng, giảng viên hoàn toàn không hoặc hiếm khi tổ chức hoạt động trên lớp hoặc hướng dẫn cách làm bài cho sinh viên cũng như giảng viên chưa giúp sinh viên nhận ra điểm yếu trong học tập của mình. Đặc biệt, có tới gần 20% số sinh viên ghi nhận giảng viên ít trò chuyện hoặc không bao giờ liên hệ để tháo gỡ khó khăn trong học tập. Tuy nhiên, có 40-45 sinh viên (từ 50%) sinh viên ghi nhận việc giảng viên luôn tạo cơ hội cho sinh viên được thể hiện năng lực cũng như có nhiều cách để kiểm tra/ đánh giá năng lực học tập của các em.
Về phía giảng viên tham gia phỏng vấn, với câu hỏi thứ nhất được khảo sát, có tới 7/10 thầy cô cho rằng sinh viên chưa thực sự chủ động tự học. Giảng viên đều phải đưa ra những hình thức khen thưởng khích lệ phù hợp mới tạo được động lực giúp các em tự học hiệu quả. Hầu hết các thầy cô (9/10) trả lời câu hỏi thứ 2 cho biết các hoạt động bổ trợ giúp sinh viên thích thú hơn khi triển khai các hoạt động tự học. Câu hỏi cuối cùng, có 6/10 thầy cô nghĩ rằng để thiết kế các hoạt động bổ trợ cần mất nhiều hơn thời gian cũng như cần có kỹ năng và kỹ thuật sử dụng tốt các phần mềm bổ trợ.
Tuy nhiên, tất cả các thầy cô đều chia sẻ rằng ngay từ buổi học đầu tiên của học phần, giảng viên đều giới thiệu mục tiêu khoá học và chuẩn đầu ra của học phần cả về kiến thức lẫn kỹ năng và thái độ. Mục tiêu và chuẩn đầu ra kiến thức còn được nhắc lại trước khi sinh viên kết thúc học phần. Việc chia sẻ mục tiêu học tập còn giúp sinh viên xác lập được mục tiêu học tập ngắn hạn và dài hạn một cách hữu ích nhất. 8/10 giảng viên có đề cập đến việc nhận xét kết quả học tập của sinh viên một cách tích cực và mang tính xây dựng. Điều này cũng tạo thêm động lực giúp sinh viên tự tin trong quá trình học tập, đặc biệt là tự học và chủ động học. 2/10 giảng viên bày tỏ áp lực khi giảng dạy với sĩ số đông trên 40 sinh viên/ lớp bởi vì học rất khó để bám sát từng sinh viên và hỗ trợ sinh viên ngay khi cần.
2.2.2. Thách thức và đề xuất
Kết quả từ các cuộc phỏng vấn với giảng viên tham gia giảng dạy tiếng Anh tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền cho thấy rằng điều đầu tiên là sự tự chủ của đa số sinh viên là chưa thực sự cao. Phần lớn sinh viên còn phụ thuộc vào sự hướng dẫn và giao bài của giảng viên. Thứ hai, sinh viên thiếu kỹ năng để khai thác và quản lý nguồn học liệu 4.0 (học liệu điện tử). 6/10 thầy cô chia sẻ cùng quan điểm rằng sinh viên rất nhanh nhạy với các thiết bị công nghệ nhưng lại dễ bị cuốn vào những thứ không phải trọng tâm học tập như mạng xã hội hay trò chơi trực tuyến. Yếu tố thứ ba là sự hạn chế về động lực học tập. Khi sinh viên chưa có kế hoạch học tập rõ ràng, chưa có nguồn lực thúc đẩy học tập thì vẫn chưa có động lực tự học cao. Giảng viên tham gia khảo sát cho rằng sinh viên có tâm lý chưa tự tin về khả năng tiếng và chưa xác định được mục tiêu học tập cụ thể nên chưa có quyết tâm và động lực học.
Về phía giảng viên, thách thức chủ yếu là bản thân giảng viên còn hạn chế kỹ năng để thúc đẩy sự tự chủ học tập của sinh viên. 3/10 giảng viên thừa nhận rằng mình có giúp sinh viên lập kế hoạch và xác định mục tiêu học tập nhưng không kiểm soát tốt quá trình sinh viên thực hiện nhiệm vụ tự học của mình. Giảng viên cho rằng tự học là sinh viên chủ động và độc lập trong việc học, nhưng trên thực tế, sinh viên rất cần sự hỗ trợ từ phía giảng viên. Bension cho rằng, tự chủ là sản phẩm của hướng dẫn mà ra chứ không phải là thứ gì đó sinh viên sẵn sàng trải nghiệm(3).
Về điều kiện khách quan và môi trường học tập, tất cả giảng viên được phỏng vấn cho rằng, Học viện Báo chí và Tuyên truyền là nơi có điều kiện học tập tốt, thư viện rộng rãi và nhiều tài liệu để sinh viên có thể tham khảo và tự học. Bên cạnh đó, chương trình học thể hiện rõ những tiết học sinh viên buộc phải tự học và có sản phẩm đầu ra để giảng viên kiểm tra. Tuy nhiên 5/10 giảng viên có ý kiến rằng, lớp học ngôn ngữ xếp 40 sinh viên là quá đông nên phần nào gây khó khăn cho giảng viên tổ chức các hoạt động và quan tâm sát xao tới từng sinh viên để tháo gỡ khó khăn mà sinh viên gặp phải một cách kịp thời nhất. Tác giả đề xuất với Học viện có thể xếp lớp với sĩ số khoảng từ 25-30 sinh viên/ lớp để tạo điều kiện cho giảng viên sát xao hơn với người học, đồng thời có những khoá tập huấn về công nghệ cho giảng viên để người dạy cập nhật thêm những cách thức triển khai hoạt động tự học một cách linh hoạt nhất.
3. Kết luận
Bài viết thể hiện một nghiên cứu nhỏ nhưng cũng chỉ ra được một số vấn đề trong quá trình tự học của sinh viên. Bên cạnh việc sinh viên còn thiếu kỹ năng khai thác tài liệu tự học và động lực học chưa cao thì giảng viên vẫn còn những hạn chế khi giúp đỡ, hỗ trợ sinh viên sát xao. Vì thời gian học của mỗi học phần là không nhiều nên giảng viên cần sắp xếp thời gian để làm việc với sinh viên trong và ngoài giờ lên lớp để giúp đỡ sinh viên gỡ bỏ những rào cản khi tự học và thúc đẩy động cơ học tập của sinh viên. Học viện và khoa chủ quản cũng nên tổ chức các buổi hội thảo, toạ đàm để chia sẻ khó khăn cũng như trao đổi kiến thức để nâng cao hiệu quả tự học cho sinh viên./.
__________________________________________
(1) Nguyen, Thanh Nga. (2012). “Let students take control!” Fostering learner autonomy in language learning: An experiment. International Conference on Education and Management Innovation IPEDR vol.30
(2) Dam, L. (1995). Learner autonomy 3: From the theory to classroom practice. Dublin: Authentik.
(3) Bension, P. (2008). Teachers’ and learners’ perspectives on autonomy. In T. Lamb & H. Reinders (Eds.), Learner and teacher autonomy: Concepts, realities, and responses (pp. 16-32). Amsterdam: John Benjamins Publishing Co.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông điện tử
Bài liên quan
- Ngoại giao văn hóa Nhật Bản thông qua Manga và Anime trong quảng bá Thế vận hội Olympic Tokyo 2020 và một số gợi mở thực tiễn đối với Việt Nam
- Ứng dụng câu lệnh điều khiển AI trong hoạt động giảng dạy của giảng viên: Thực trạng và giải pháp
- Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thông tin về sách giáo khoa trên báo mạng điện tử Việt Nam
- Năng lực ngôn ngữ và vai trò của năng lực ngôn ngữ đối với sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Một số yếu tố tác động đến đổi mới phương pháp định hướng dư luận xã hội ở nước ta hiện nay
Xem nhiều
-
1
Một số giải pháp xử lý thông tin giả, sai lệch, xuyên tạc tác động đến dư luận xã hội ở Việt Nam hiện nay
-
2
Vai trò của cấp ủy cơ sở tại tỉnh Điện Biên trong thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021-2025: thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng
-
3
Nâng cao hiệu quả quản lý thông tin hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông trên báo mạng điện tử Việt Nam
-
4
Quản trị truyền thông tiếp thị tích hợp của các trung tâm đào tạo công nghệ thông tin tại Việt Nam
-
5
Giải pháp nâng cao chất lượng thông tin về chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào dân tộc thiểu số trên báo mạng điện tử ở Việt Nam hiên nay
-
6
Quảng bá di sản văn hóa phi vật thể trên các kênh truyền thông số: Đặc trưng và những yêu cầu đặt ra
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Quảng bá di sản văn hóa phi vật thể trên các kênh truyền thông số: Đặc trưng và những yêu cầu đặt ra
Quảng bá di sản văn hoá phi vật thể (DSVHPVT) là hoạt động truyền thông của các tổ chức văn hóa, cơ quan báo chí truyền thông và cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa… nhằm giới thiệu vẻ đẹp, giá trị của các DSVHPVT đến đông đảo công chúng, từ đó, góp phần nâng cao nhận thức về DSVHPVT, thúc đẩy trách nhiệm gìn giữ, phát huy giá trị di sản ở mỗi tổ chức, cá nhân. Trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, các tổ chức văn hóa, cơ quan báo chí truyền thông đang tận dụng các kênh truyền thông số trong quảng bá di sản. Để thực hiện thành công hoạt động này, các chủ thể truyền thông bắt buộc phải nhận diện rõ đặc thù quảng bá của kênh truyền thông số, xác định rõ những nội dung, hình thức, quy trình và các tiêu chí quảng bá phù hợp.
Ngoại giao văn hóa Nhật Bản thông qua Manga và Anime trong quảng bá Thế vận hội Olympic Tokyo 2020 và một số gợi mở thực tiễn đối với Việt Nam
Ngoại giao văn hóa Nhật Bản thông qua Manga và Anime trong quảng bá Thế vận hội Olympic Tokyo 2020 và một số gợi mở thực tiễn đối với Việt Nam
Ngoại giao văn hóa là hình thức sử dụng quyền lực mềm để quốc gia mở rộng ảnh hưởng. Ngày nay, hoạt động này càng hiệu quả nhờ các phương tiện đa dạng. Anime và manga của Nhật Bản đã lan rộng toàn cầu, thu hút đông đảo người hâm mộ, góp phần thúc đẩy sự thấu hiểu và chia sẻ giá trị chung. Việc sử dụng chín nhân vật manga nổi tiếng cùng sự hợp tác với các hãng anime để quảng bá Thế vận hội giúp Nhật Bản lan tỏa tinh thần thể thao và tạo nên mối quan hệ cộng sinh tích cực. Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu ngoại giao văn hóa của Nhật Bản qua anime và manga trong quảng bá Thế vận hội Tokyo 2020, đồng thời đưa ra gợi ý về việc ứng dụng công cụ văn hóa trong ngoại giao và thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau qua thể thao.
Ứng dụng câu lệnh điều khiển AI trong hoạt động giảng dạy của giảng viên: Thực trạng và giải pháp
Ứng dụng câu lệnh điều khiển AI trong hoạt động giảng dạy của giảng viên: Thực trạng và giải pháp
Bài viết phân tích kỹ năng sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) của giảng viên trong hoạt động giảng dạy, tập trung vào kỹ năng xây dựng câu lệnh điều khiển AI (Prompt Engineering), đồng thời làm rõ thêm tầm quan trọng của việc làm chủ các lệnh (prompt) này trong các hoạt động: tìm kiếm tài liệu, xây dựng học liệu số, đánh giá kết quả bài giảng. Thông qua thực tiễn giảng dạy trong lĩnh vực lý luận chính trị, báo chí truyền thông, bài báo đề xuất các cấu trúc prompt từ cơ bản đến mở rộng, gợi mở một số ví dụ áp dụng trong quá trình giảng dạy, đồng thời, đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả ứng dụng AI vào hoạt động giảng dạy ở các cơ sở giáo dục đại học.
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thông tin về sách giáo khoa trên báo mạng điện tử Việt Nam
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thông tin về sách giáo khoa trên báo mạng điện tử Việt Nam
Lịch sử phát triển sách giáo khoa giáo dục phổ thông Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn cải cách quan trọng, gắn với các mốc thay sách vào các năm: 1957, 1981, 2002, 2020(1). Mới đây, cuối tháng 8 năm 2025, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 71 về việc rà soát thực hiện chương trình giáo dục phổ thông, đảm bảo cung cấp một bộ sách giáo khoa thống nhất toàn quốc. Trước đó, thời điểm Chương trình giáo dục phổ thông 2018 được ban hành, đã tạo nên những thay đổi lớn đối với nền giáo dục nước nhà, đồng thời đặt ra nhiều thách thức trong công tác quản lý và truyền thông về sách giáo khoa. Trước những biến động về chính sách giáo dục, báo chí Việt Nam có trách nhiệm truyền tải thông tin một cách đầy đủ, chính xác và khách quan, nhằm giúp công chúng nắm bắt được chủ trương của Đảng, đường lối của Nhà nước về vấn đề sách giáo khoa. Trên cơ sở đó, bài viết này tập trung phân tích thực trạng quản lý thông tin về sách giáo khoa trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay, chỉ ra những vấn đề còn tồn tại và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thông tin ở lĩnh vực này.
Năng lực ngôn ngữ và vai trò của năng lực ngôn ngữ đối với sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Năng lực ngôn ngữ và vai trò của năng lực ngôn ngữ đối với sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng và tiện lợi nhất. Nhưng để giao tiếp có hiệu quả phải cần đến năng lực ngôn ngữ (NLNN). Trong xã hội phát triển như hiện nay, việc mở rộng phạm vi, loại hình, không gian, cách thức giao tiếp là tất yếu, theo đó NLNN càng trở nên quan trọng. Do vậy, việc phát triển NLNN cần phải trở thành điều kiện tiên quyết, nhất là đối với sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền (Học viện BC&TT). Bài này nói về vai trò của NLNN đối với sinh viên của Học viện trong hoạt động tác nghiệp.
Bình luận