Đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị trực tuyến ở Việt Nam hiện nay
1. Thực trạng và những vấn đề đặt ra
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang tác động sâu rộng đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và đem lại nhiều cơ hội, thuận lợi mới đối với giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành hai thông tư quan trọng là Thông tư số 12/2016/TT-BGDĐT ngày 22.4.2016 Quy định ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, tổ chức đào tạo qua mạng và Thông tư số 10/2017/TT-BGDĐT ngày 22.4.2017 ban hành Quy chế đào tạo từ xa trình độ đại học trong đó xác định rõ việc ứng dụng công nghệ thông tin trong đào tạo qua mạng là việc sử dụng các trang thiết bị điện tử, phần mềm, học liệu điện tử và mạng viễn thông (chủ yếu là mạng Internet) hỗ trợ các hoạt động dạy và học nhằm đổi mới phương pháp dạy - học, nâng cao hiệu quả công tác đào tạo.
Liên quan trực tiếp đến đào tạo trực tuyến, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành hai văn bản: Công văn số 795/BGDĐT-GDĐH ngày 13.3.2020 về việc triển khai công tác đào tạo từ xa ứng phó với dịch Covid-19 và Công văn số 988/BGDĐT-GDĐH ngày 23.3.2020 về việc bảo đảm chất lượng đào tạo từ xa trong thời gian phòng, chống dịch Covid-19.
Theo số liệu thống kê của Vụ Giáo dục đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo, tính đến ngày 13.4.2020 đã có 110/240 trường đại học tại Việt Nam triển khai hình thức đào tạo trực tuyến, bao gồm 63 trường công lập (khoảng 43% tổng số trường công lập), 42 trường ngoài công lập (khoảng 70% tổng số trường ngoài công lập) và 05 trường có vốn đầu tư nước ngoài (100% trường có vốn nước ngoài). Còn 104 trường chưa đào tạo trực tuyến, gồm 86 trường công lập (57% trường công lập) và 18 trường ngoài công lập (30% trường ngoài công lập)(1).
Theo một nghiên cứu của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OEDC) về những bài học thực tiễn mà nền giáo dục các nước đã làm tốt trong đại dịch Covid-19, Việt Nam là một trong các quốc gia được lấy làm ví dụ để các nước khác học hỏi kinh nghiệm.
Ủng hộ sáng kiến của Bộ Giáo dục và Đào tạo, vào ngày 26.3.2020 các nhà mạng lớn ở Việt Nam (Viettel, VNPT, MobiFone, Vietnamobile) cam kết hỗ trợ ngành giáo dục trong việc ngăn chặn và kiểm soát Covid-19 bằng cách miễn phí lưu lượng data điện thoại cho học sinh, người học, giáo viên và phụ huynh khi sử dụng các giải pháp đào tạo trực tuyến do Bộ công bố. Đây cũng là nỗ lực nhằm tăng tốc quá trình số hóa ở Việt Nam.
Với ưu điểm có thể tạo nên môi trường học tập rộng rãi cho đông đảo người dân, không phụ thuộc vào không gian và thời gian vật lý nếu điều kiện cho phép, có thể giúp người học tiết kiệm được chi phí đi lại, sắp xếp được thời gian học tập hợp lý cho mình, đào tạo và bồi dưỡng trực tuyến có thể giúp khắc phục những khó khăn trong việc tổ chức các khóa học tại các địa phương ở xa cơ sở đào tạo, bồi dưỡng hoặc khó khăn của người học đang sinh sống và làm việc ở những nơi xa cơ sở đào tạo, bồi dưỡng. Theo đó, việc đào tạo, bồi dưỡng trực tuyến có thể tạo ra những cơ hội học tập mới cho người học cũng như đáp ứng yêu cầu mở rộng, phát triển của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng LLCT ở Việt Nam.
Thêm vào đó, môi trường số hóa có khả năng cung cấp cho người học kho tri thức, tài liệu khổng lồ từ khắp nơi trên thế giới. Vì vậy, dạy và học trực tuyến có thể giúp người học tiếp cận và khai thác ngày càng nhiều hơn, hiệu quả hơn kho tài liệu này.
Đào tạo, bồi dưỡng trực tuyến là một xu hướng tất yếu mà các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng LLCT ở nước ta cần đón bắt, thích ứng và triển khai thực hiện có hiệu quả. Trong hai năm qua, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, các trường chính trị cấp tỉnh và các cơ sở đào tạo có giảng dạy các môn LLCT đã thực hiện khá tốt phương thức đào tạo trực tuyến.
Bên cạnh những thành tựu đáng ghi nhận, công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT trực tuyến cũng gặp không ít khó khăn, thách thức, ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả của công tác này. Những vấn đề đặt ra hiện nay là:
Về cơ sở pháp lý
Trong những năm gần đây, các luật, văn bản dưới luật của Nhà nước đều nhấn mạnh đến đổi mới, ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác đào tạo, bồi dưỡng nói chung và đào tạo LLCT nói riêng. Tuy nhiên, các quy định này còn mang tính chung chung, chưa đề cập một cách cụ thể và có hệ thống về đào tạo trực tuyến. Chính vì vậy, khi dịch bệnh Covid-19 bùng phát, hàng loạt các trường học trong hệ thống giáo dục quốc dân, đặc biệt là các trường đại học, cao đẳng, buộc phải chuyển sang phương thức đào tạo trực tuyến, nhưng còn lúng túng, thiếu thống nhất; “mặc dù có những ưu điểm rõ rệt song về căn cứ pháp lý đối với loại hình đào tạo trực tuyến hoặc học qua truyền hình vẫn chưa được Bộ Giáo dục và Đào tạo chính thức thông qua. Và cách làm của các trường hiện nay cũng đang theo kiểu: “Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh”(2); “những hành lang pháp lý cho vấn đề này vẫn cần được xây dựng, bổ sung thêm.
Trong thời gian tới, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần tiếp tục ban hành những văn bản để hoàn thiện hành lang pháp lý cho đào tạo trực tuyến. Trong đó, xem xét đưa phương thức đào tạo trực tuyến vào quy chế đào tạo đại học sửa đổi với tỷ lệ phần trăm thích hợp. Bộ cần sớm ban hành quy chế bảo đảm chất lượng các chương trình đào tạo từ xa và xây dựng đề án phát triển đào tạo từ xa cho giai đoạn tiếp theo”(3).
Về cơ sở vật chất, công nghệ
Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, với sự phát triển mạnh mẽ về công nghệ số, việc đầu tư cơ sở vật chất, công nghệ cần tiến hành thường xuyên, liên tục, nhằm cập nhật, tận dụng tối ưu những thành tựu công nghệ, bảo đảm tính đồng bộ, hiệu quả cao cho đào tạo, bồi dưỡng nói chung, đào tạo, bồi dưỡng LLCT trực tuyến nói riêng.
Trong chương trình đào tạo của các trường đại học ở Việt Nam hiện nay có những học phần được tổ chức trên hệ thống đào tạo trực tuyến gồm: hệ thống quản lý học tập (Learning Management System - LMS), hệ thống quản lý nội dung học tập (Learning Content Management System - LCMS) có đầy đủ học liệu và hệ thống mô phỏng thí nghiệm, thực hành... theo yêu cầu của chương trình đào tạo. Ngoài ra, có những học phần chỉ tổ chức đào tạo trực tuyến qua các công cụ dạy học trực tuyến theo thời gian thực (Real Time Conference - RTC) như: Microsoft Teams, Zoom, Webex, Google Hangouts Meet... Để đối phó với dịch Covid-19, vừa qua rất nhiều trường đại học đã tổ chức đào tạo trực tuyến theo thời gian thực với các phần mềm phổ biến Microsoft Teams, Zoom. Tuy nhiên, việc sử dụng các phần mềm này gây ra khá nhiều tranh luận, nhất là về những kẽ hở và tính bảo mật của chúng khiến cho các trường khá lúng túng, thậm chí có những trường lúc đầu sử dụng phần mềm Zoom nhưng sau đó lại chuyển sang phần mềm Microsoft Teams để bảo đảm hơn về tính bảo mật.
Tình trạng có quá nhiều nền tảng, quá nhiều phần mềm khiến cho việc tổ chức đào tạo trực tuyến theo kiểu “trăm hoa đua nở”, “mạnh ai nấy làm”, không bảo đảm tính hệ thống, tính quy chuẩn, thậm chí lộn xộn. Thực trạng đó đòi hỏi các cơ quan chức năng, đặc biệt là Bộ Giáo dục và Đào tạo, cần phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông có giải pháp hỗ trợ hạ tầng công nghệ cho các cơ sở đào tạo, bảo đảm tính quy chuẩn, thống nhất và bảo mật.
Về cơ sở vật chất, không phải cơ sở giáo dục đại học nào cũng có đủ nguồn kinh phí và nguồn nhân lực chất lượng cao để tổ chức triển khai. Đó là chưa kể, đầu tư vào đào tạo, bồi dưỡng trực tuyến hiện nay là bài toán chưa rõ về chi phí: có thể bắt đầu với chi phí rất thấp, nhưng tốc độ mở rộng rất nhanh và không giới hạn về số lượng lẫn khung giờ tham gia, từ đó sẽ phát sinh nhiều chi phí không lường trước được(4).
Về chương trình đào tạo, bồi dưỡng và công tác quản lý
Đào tạo, bồi dưỡng trực tuyến có sự khác biệt rất lớn với đào tạo, bồi dưỡng truyền thống; không thể sử dụng nguyên xi chương trình đào tạo, bồi dưỡng truyền thống cho phương thức đào tạo trực tuyến. Đào tạo, bồi dưỡng LLCT trực tuyến đặt ra vấn đề phải đổi mới chương trình đào tạo, thích ứng với công nghệ truyền thông hiện đại và số hóa nội dung bài giảng cũng như nhu cầu rất đa dạng của người học. Cơ sở đào tạo cần xây dựng khung chương trình đào tạo, bồi dưỡng mang tính hệ thống, có cơ sở pháp lý, với những yêu cầu cụ thể về kỹ thuật để triển khai kế hoạch giảng dạy chung trong toàn trường, toàn khóa, đồng thời đổi mới công tác tổ chức các kỳ thi, kiểm tra, việc đánh giá, khảo thí và kiểm định chất lượng.
Đào tạo, bồi dưỡng LLCT trực tuyến cũng đặt ra nhiều vấn đề mới về công tác quản lý. Việc giảng dạy với các nội dung số hóa trên các nền tảng công nghệ thông tin hiện đại đòi hỏi công tác quản lý cũng phải được số hóa, hiện đại hóa, phát huy tối ưu vai trò của công nghệ thông tin; bảo đảm quyền lợi cho người dạy và người học, ngăn ngừa tối đa tình trạng giảng viên không chấp hành đúng quy định và người học vi phạm, gian lận trong quá trình học, thi, kiểm tra... Mỗi cơ sở đào tạo, bồi dưỡng LLCT trực tuyến phải đổi mới, sửa đổi, hoàn thiện quy chế quản lý đào tạo, bồi dưỡng cho phù hợp với phương thức đào tạo trực tuyến các môn học này, đặc biệt là về chế độ thù lao giảng viên lên lớp, trợ giảng; quy định về bản quyền trong dạy học, giáo trình và tài liệu, học liệu điện tử; quy định về thời gian tối thiểu tham dự lớp học; quy định về kiểm tra, đánh giá môn học; quy định về quản lý người học;…
Về nguồn nhân lực
Về đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý:
Yêu cầu về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục - đào tạo hiện nay, đặc biệt là trong đào tạo, bồi dưỡng trực tuyến, đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các cơ sở giáo dục LLCT ngoài việc đáp ứng các yêu cầu về năng lực chuyên môn, phải có năng lực tổ chức, kỹ năng trong điều hành, giải quyết công việc gắn với việc số hóa, phát huy tối ưu những thành tựu mà cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đưa lại.
Trong giai đoạn hiện nay, đội ngũ này phải xác định được mục tiêu, tầm nhìn, xây dựng các kế hoạch ngắn hạn, trung hạn và dài hạn để bảo đảm việc đào tạo, bồi dưỡng LLCT trực tuyến một cách bài bản, có lộ trình thích hợp, vừa phát huy được nguồn lực con người và công nghệ hiện đại, vừa đáp ứng được nhu cầu xã hội trên cơ sở phát huy tối ưu thế mạnh của công nghệ thông tin.
Khi đại dịch Covid-19 bùng phát, một số cơ sở đào tạo LLCT, sau những lúng túng nhất định, đội ngũ lãnh đạo, quản lý đã có những bước chuyển mạnh mẽ, chủ động nghiên cứu, tìm hiểu về đào tạo, bồi dưỡng trực tuyến, chuyển đổi mạnh mẽ từ phương thức đào tạo, bồi dưỡng truyền thống sang phương thức đào tạo, bồi dưỡng trực tuyến, đem lại những kết quả tốt. Tuy nhiên, đây là một công việc lớn và khó, đòi hỏi có sự thay đổi căn bản về tổ chức bộ máy, nhân lực, ứng dụng công nghệ, xây dựng chương trình và cơ sở học liệu, số hóa bài giảng, đổi mới công tác quản lý, tổ chức kiểm tra, đánh giá... Tình hình đó đặt ra vấn đề phải có sự phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng cán bộ lãnh đạo, quản lý trong quá trình triển khai tổ chức đào tạo, bồi dưỡng trực tuyến. Cần chủ động tổ chức những lớp đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu thực tế để quá trình tổ chức triển khai đào tạo, bồi dưỡng LLCT trực tuyến diễn ra một cách chủ động, thống nhất và đạt hiệu quả cao.
Về đội ngũ giảng viên:
Giảng dạy trực tuyến không chỉ đòi hỏi sự am hiểu về lĩnh vực chuyên môn giảng dạy, mà còn đặt ra yêu cầu cao về kỹ thuật, công nghệ và phương pháp giảng dạy. Giảng viên phải có kiến thức và kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin, hiểu rõ về hệ thống quản lý khóa học trực tuyến (Learning Management System), kỹ năng giảng dạy trực tuyến, giảng dạy từ xa...
Đối với các giảng viên LLCT, có rất nhiều vấn đề đặt ra cần giải quyết. Các môn LLCT vốn khô khan, cả lý luận và thực tiễn có những vấn đề hóc búa không dễ lý giải, quá trình giảng bài của giảng viên có thể nhận được những câu hỏi rất khó, thậm chí là nhạy cảm về chính trị. Toàn bộ bài giảng có thể được người học ghi lại và đưa lên mạng. Nếu bài giảng không tốt, đặc biệt là những bài giảng có vấn đề về chính trị, khi bị đưa lên mạng có thể ảnh hưởng rất lớn đến uy tín của giảng viên và cơ sở đào tạo, bồi dưỡng. Chính vì vậy, để giảng dạy LLCT trực tuyến đòi hỏi phải có đội ngũ giảng viên giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ và công nghệ thông tin, có kinh nghiệm giảng dạy và kỹ năng xử lý tình huống tốt.
Thực tế hiện nay cho thấy, nhiều giảng viên LLCT trẻ giỏi công nghệ thông tin và ngoại ngữ, nhưng kiến thức chuyên môn, kỹ năng xử lý tình huống còn nhiều hạn chế. Trong khi đó, nhiều giảng viên LLCT lớn tuổi có kiến thức chuyên môn tốt, nhưng khả năng sử dụng công nghệ trong xây dựng bài giảng và giảng dạy còn nhiều hạn chế; việc thiết kế kịch bản dạy học, xây dựng hình ảnh, video clip, tích hợp các trang màn hình, tương tác với người học, kết nối với cán bộ quản lý đào tạo, theo dõi quá trình tiến bộ của từng người học trong dạy học, khả năng nắm bắt trong tiếp nhận và xử lý thông tin phản hồi từ phía người học đối với họ không phải là việc đơn giản.
Bên cạnh đó, việc chuyển sang đào tạo, bồi dưỡng LLCT trực tuyến đòi hỏi đội ngũ giảng viên phải thay đổi phương pháp giảng dạy. Ngoài phương pháp thuyết trình không thể thay thế, giảng viên phải tận dụng tối đa các phương pháp giảng dạy tích cực gắn với công nghệ như phương pháp lớp học đảo ngược, trò chơi truyền hình...; một số phương pháp tích cực khác vốn được sử dụng phổ biến ở lớp học truyền thống như phương pháp sàng lọc, phương pháp thảo luận nhóm cũng cần có sự thay đổi bằng việc tận dụng các hiệu ứng kỹ thuật trên các phần mềm giảng dạy, thích ứng với đào tạo, bồi dưỡng trực tuyến.
Về đội ngũ cán bộ kỹ thuật vận hành công nghệ:
Việc đào tạo, bồi dưỡng LLCT trực tuyến cũng đặt ra vấn đề phải xây dựng đội ngũ cán bộ công nghệ thông tin hỗ trợ cho quá trình giảng dạy. Thực tế cho thấy, đội ngũ cán bộ công nghệ thông tin ở các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng LLCT hiện nay rất hạn chế về số lượng và một số chưa thực sự đáp ứng yêu cầu về chất lượng. Các cơ sở giáo dục - đào tạo rất khó có thể tuyển được những kỹ sư giỏi, trong trường hợp tuyển được kỹ sư giỏi cũng rất khó giữ chân họ khi tiền lương và chế độ đãi ngộ rất thấp, phải theo quy định chung, chưa có cơ chế đặc thù. Đặc biệt, hầu hết các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng LLCT trực tuyến vẫn được tổ chức theo mô hình cũ, nên biên chế dành cho đội ngũ cán bộ công nghệ thông tin rất hạn chế. Thực tế đó đòi hỏi các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng LLCT trực tuyến phải xây dựng, tổ chức lại được đội ngũ cán bộ công nghệ thông tin, tạo ra được một lực lượng đủ mạnh để thực hiện nhiệm vụ mới.
Về người học
Đào tạo, bồi dưỡng trực tuyến đòi hỏi người học phải xác định rõ mục tiêu học tập, chuẩn bị đủ điều kiện về thiết bị công nghệ (máy tính, điện thoại thông minh có kết nối internet, mạng internet tốc độ cao...), kỹ năng sử dụng công nghệ, cài đặt và sử dụng phần mềm, chuẩn bị không gian học tập, lập kế hoạch học tập, nghiên cứu, khai thác học liệu. Mặt bằng trình độ sử dụng công nghệ của người học hiện không đồng đều, có những người học ở xa đô thị, nên việc tiếp cận Internet rất khó khăn. Trong khi đó, có những học viên, tuy không gặp khó khăn về cơ sở vật chất, thiết bị công nghệ, nhưng lại thụ động, ỷ lại, đối phó trong học tập, khiến cho việc giảng dạy, bồi dưỡng trực tuyến không bảo đảm chất lượng. Hình thức học trực tuyến yêu cầu việc tự học, tự nghiên cứu chủ động từ phía người học, phải khắc phục thói quen học tập truyền thống với tính ỷ lại, thụ động.
Về nội dung học tập - học liệu điện tử
Các môn học LLCT, do tính trừu tượng, khái quát cao, nên việc xây dựng nội dung học liệu điện tử không đơn giản; việc tạo ra một bài giảng trực tuyến sinh động, dễ hiểu là một thử thách lớn đối với giảng viên. Để làm tốt vấn đề này, ngoài giảng viên biên soạn về nội dung chuyên môn cần có các chuyên gia công nghệ thông tin hỗ trợ về mặt kỹ thuật để tận dụng tối đa thế mạnh của công nghệ thông tin, ưu thế của hiệu ứng kỹ thuật.
Bên cạnh các bài giảng điện tử còn có hệ thống tài liệu tham khảo hình thành nên hệ thống học liệu điện tử, tạo nguồn tài nguyên giáo dục mở. Đây là nguồn tài nguyên giảng dạy, học tập mà không có bản quyền sử dụng hoặc được phát hành theo giấy phép sở hữu trí tuệ, cung cấp miễn phí trên hệ thống Internet. Tuy nhiên, ở đây cũng đặt ra vấn đề lớn là việc bảo vệ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ không đơn giản. Hiện nay, ở nước ta, ý thức tự giác của người sử dụng cũng như sự hiểu biết về quyền sở hữu trí tuệ chưa cao, bản quyền tác giả thường xuyên bị vi phạm, luật về quyền sở hữu trí tuệ còn nhiều kẻ hở, bài giảng trực tuyến cũng như hệ thống học liệu điện tử mà các giảng viên dày công xây dựng dễ bị sao chép tràn lan, khó kiểm soát.
2. Một số giải pháp
Một là, thống nhất nhận thức tư tưởng về sự cần thiết triển khai đào tạo, bồi dưỡng LLCT trực tuyến. Đây là công việc rất mới, thực sự là cuộc cách mạng, đổi mới căn bản và mạnh mẽ phương pháp dạy và học hiện đại, phù hợp với Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Hai là, bên cạnh chương trình giảng dạy trực tiếp, cần xây dựng, chuyển đổi, kết cấu lại nội dung các chương trình tổng thể, chương trình chi tiết, kế hoạch đào tạo các chuyên ngành LLCT sang chương trình, kế hoạch đào tạo trực tuyến từ việc tuyển sinh, tổ chức học tập, thi, kiểm tra, công nhận chứng chỉ, bằng tốt nghiệp...
Ba là, bên cạnh việc xây dựng đội ngũ giáo viên LLCT tâm huyết, yêu nghề, có kiến thức mới gắn với thực tiễn, cần xây dựng các tiêu chí đối với giảng viên giảng dạy trực tuyến cho từng học phần, từng chuyên ngành LLCT. Đồng thời, cần có chế độ tính giờ giảng phù hợp để các giảng viên yên tâm, nhanh chóng tiếp cận và có thể thu hút các nhà khoa học, các giảng viên LLCT giỏi tham gia giảng dạy trực tuyến.
Bốn là, tăng cường kết cấu hạ tầng phục vụ triển khai dạy học trực tuyến. Đó là trang bị và nâng cấp hệ thống máy tính, thiết bị thu, phát các bài giảng trực tuyến, các quy định về việc tổ chức giảng dạy và học tập. Tăng cường cơ sở vật chất, nâng cấp kết cấu hạ tầng thông tin, xây dựng các phòng học hiện đại, xây dựng thư viện, học liệu điện tử.
________________________________________________
(1) Quý Hiên, Bộ Giáo dục và Đào tạo - hội nghị trực tuyến tại 300 điểm cầu bàn đạo tạo đại học trực tuyến, https://thanhnien.vn/giao-duc/bo-gd-dt-hoi-nghi-truc-tuyen-tai-300-diem-cau-ban-dao-tao-dai-hoc-truc-tuyen-1212171.html.
(2) Phan Thủy, Học trực tuyến: Cần hành lang pháp lý đồng bộ, https://phapluatxahoi.vn/hoc-truc-tuyen-can-hanh-lang-phap-ly-dong-bo-184324.html, truy cập ngày 10.3.2021.
(3) T.Fan, Nỗ lực hoàn thiện hành lang pháp lý cho đào tạo trực tuyến, https://phapluatxahoi.vn/no-luc-hoan-thien-hanh-lang-phap-ly-cho-dao-tao-truc-tuyen-189752.html, truy cập ngày 10.3.2021.
(4) Lê Thị Thu Hà, Phát triển giáo dục đào tạo trực tuyến ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập, http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/phat-trien-giao-duc-dao-tao-truc-tuyen-o-viet-nam-trong-thoi-ky-hoi-nhap-301446.html, truy cập ngày 21.3.2021.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị điện tử ngày 4.6.2022
Bài liên quan
- Một số yếu tố tác động đến đổi mới phương pháp định hướng dư luận xã hội ở nước ta hiện nay
- Cận ngôn ngữ trong phát biểu trước công chúng
- Nâng cao năng lực tư duy phản biện cho người học trong đào tạo người làm báo ở các trường đại học Việt Nam hiện nay
- Nhà báo Nguyễn Phú Trọng
- Một số vấn đề đặt ra với chuyên ngành Báo ảnh tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- 3 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 4 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 5 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 6 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Với cộng đồng 54 dân tộc anh em, Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa đa dạng, phong phú, có những nét riêng, trở thành tài sản quý giá làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam độc đáo, đặc sắc. Giữ gìn và bảo vệ các giá trị di sản văn hóa truyền thống chính là góp phần củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc - một sức mạnh nội sinh to lớn và vĩ đại, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.
Một số yếu tố tác động đến đổi mới phương pháp định hướng dư luận xã hội ở nước ta hiện nay
Một số yếu tố tác động đến đổi mới phương pháp định hướng dư luận xã hội ở nước ta hiện nay
Những biến đổi trong đời sống xã hội cùng với những thành tựu của Cách mạng 4.0 và sự phát triển mạnh mẽ của internet và mạng xã hội đã tạo ra môi trường thông tin rộng lớn, dễ tiếp cận nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro như tin giả, thông tin sai lệch. Điều này tác động sâu sắc đến công tác định hướng dư luận xã hội ở nước ta hiện nay. Việc đổi mới phương pháp định hướng dư luận xã hội là một đòi hỏi tất yếu để góp phần vào xây dựng một môi trường thông tin lành mạnh, duy trì sự ổn định xã hội, củng cố niềm tin của người dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
Cận ngôn ngữ trong phát biểu trước công chúng
Cận ngôn ngữ trong phát biểu trước công chúng
Khi phát biểu trước công chúng, người nói không chỉ dùng ngôn từ tác động đến người nghe mà còn dùng giọng nói, trọng âm, tốc độ… để góp phần chuyển tải thông điệp. Những yếu tố ấy chính là cận ngôn ngữ. Bài viết này nhận diện các yếu tố cận ngôn ngữ và vai trò của chúng trong phát biểu trước công chúng.
Nâng cao năng lực tư duy phản biện cho người học trong đào tạo người làm báo ở các trường đại học Việt Nam hiện nay
Nâng cao năng lực tư duy phản biện cho người học trong đào tạo người làm báo ở các trường đại học Việt Nam hiện nay
Giám sát và phản biện xã hội là chức năng cơ bản của báo chí. Để thể hiện được vai trò giám sát và phản biện xã hội của báo chí, người làm báo cần có khả năng phản biện tốt. Trong môi trường thông tin mở, vai trò giám sát và phản biện xã hội càng trở nên quan trọng, đòi hỏi người làm báo nâng cao năng lực hoạt động, trong đó có năng lực phản biện xã hội. Cơ sở và điều kiện của năng lực này là khả năng tư duy phản biện của đội ngũ người làm báo. Bài viết bàn về nâng cao năng lực tư duy phản biện cho người học trong quá trình đào tạo sinh viên chuyên ngành báo chí ở nước ta trong bối cảnh hiện nay.
Nhà báo Nguyễn Phú Trọng
Nhà báo Nguyễn Phú Trọng
Những ngày qua, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam thông báo về tình hình sức khỏe của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Nhân dân cả nước và bè bạn quốc tế lo lắng, cầu mong mọi điều bình an đối với người lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam. Thật buồn, khi tôi đang viết bài này thì phép màu nhiệm đã không đến... Vào lúc 13 giờ 38 phút ngày 19 tháng 7 năm 2024, trái tim người con ưu tú của nước Việt đã ngừng đập…
Bình luận