Đẩy mạnh phát triển dịch vụ xã hội phi lợi nhuận ở Việt Nam
1. Thực trạng phát triển dịch vụ xã hội phi lợi nhuận ở Việt Nam
Thời gian qua, ở Việt Nam xuất hiện nhiều tổ chức phi lợi nhuận chủ động cung ứng dịch vụ xã hội cho những đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương và giải quyết các nhu cầu cộng đồng, bao gồm: tổ chức cứu trợ, quỹ từ thiện xã hội, các hiệp hội, tổ chức khoa học và công nghệ, nhóm tình nguyện…, thường tập trung nhiều vào một số lĩnh vực, như giáo dục, y tế, hỗ trợ cộng đồng…
Trong lĩnh vực giáo dục, để khuyến khích các chủ thể trong xã hội tham gia phát triển dịch vụ xã hội phi lợi nhuận, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp quy điều chỉnh hoạt động của các chủ thể đang tham gia cung ứng dịch vụ giáo dục, như: Nghị định số 53/2006/NĐ-CP, ngày 25.5.2006, của Chính phủ, “Về chính sách khuyến khích phát triển các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công lập”; Luật Giáo dục đại học năm 2012; Nghị định số 16/2015/NĐ-CP, ngày 14.2.2015, của Chính phủ, về “Quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập”… Tuy nhiên, trong từng phân khúc, các đối tượng cung ứng vẫn chưa phát huy triệt để vai trò của mình.
Đơn cử, trong phân khúc giáo dục mầm non, khu vực công vẫn giữ vai trò chủ đạo, số lượng các trường ngoài công lập tăng nhẹ và đa phần hoạt động dựa trên nguyên tắc lợi nhuận. Minh chứng, năm học 2015 - 2016, số trường ngoài công lập chiếm 14,12%, đến năm học 2019 - 2020 tăng lên 19,53%; số lượng tổ chức phi lợi nhuận cung cấp dịch vụ rất hạn chế, tiêu biểu có Trường mầm non thuộc hệ thống Vinschool, Trường mầm non thuộc hiệp hội Montessori Hoa Kỳ (Hà Nội), Trường Mẫu giáo Dona Standard (tỉnh Đồng Nai)… Nhìn chung, các tổ chức phi lợi nhuận tham gia cung ứng dịch vụ giáo dục đã góp phần đa dạng hóa các hình thức cung ứng, tạo sự cạnh tranh giữa các chủ thể, thúc đẩy cải thiện chất lượng, mang lại nhiều sự lựa chọn hơn cho người dân.
Lĩnh vực y tế có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với đời sống người dân. Vì vậy, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy định về cơ chế hoạt động của các tổ chức cung ứng dịch vụ, như: Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009; Nghị định số 85/2012/NĐ-CP, ngày 15.12.2012, của Chính phủ “Về cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp y tế công lập và giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh của các cơ sở khám chữa bệnh công lập”; Nghị định số 16/2015/NĐ-CP, ngày 14.2.2015, của Chính phủ “Quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập”…
Nhờ vậy, các loại hình chăm sóc sức khỏe của nhân dân ngày càng đa dạng, từ công lập đến ngoài công lập, từ đóng góp của người dân đến tài trợ của các tổ chức nước ngoài, các hình thức liên kết… Hiện nay, bên cạnh vai trò chủ đạo của hệ thống y tế công lập, hệ thống y tế ngoài công lập ngày càng phát triển cả về lượng và chất, song đa phần vẫn là các tổ chức y tế tư nhân hoạt động vì lợi nhuận. Năm 2010, chỉ có 102 bệnh viện với 5.800 giường bệnh, đến năm 2019, đã tăng lên 231 bệnh viện (chiếm 19,4% tổng số bệnh viện) với khoảng 16.000 giường bệnh (chiếm 5% tổng số giường bệnh, tỷ lệ 1,7 giường/vạn dân) và trên 35.000 phòng khám ngoài công lập, cung cấp 43% dịch vụ ngoại trú và 2,1% tổng số dịch vụ nội trú. Trong số các bệnh viện ngoài công lập có trang thiết bị hiện đại, cung cấp dịch vụ y tế kỹ thuật cao, đã xuất hiện mô hình cơ sở y tế ngoài công lập hoạt động không vì lợi nhuận, điển hình là hệ thống y tế Vinmec(1). Thực tế, bên cạnh các dịch vụ y tế từ thiện, các tổ chức phi lợi nhuận tham gia cung ứng dịch vụ y tế đã có những đóng góp lớn trong hoạt động chăm sóc sức khỏe của người dân, góp phần giảm tải áp lực khám, chữa bệnh thông thường đối với các bệnh viện công đang bị quá tải.
Các lĩnh vực hỗ trợ cộng đồng. Đời sống vật chất được nâng lên, kéo theo nhu cầu thụ hưởng về dịch vụ công của người dân không ngừng gia tăng. Vì vậy, số lượng các tổ chức phi lợi nhuận tham gia vào cung ứng các dịch vụ công ngày càng nhiều. Các sự kiện văn hóa, thể thao được tổ chức bởi các tổ chức phi lợi nhuận thường hướng đến những cá nhân có hoàn cảnh khó khăn hoặc khu vực tập trung nhiều người mong muốn được thụ hưởng các dịch vụ mà những điều kiện sẵn có không cho phép họ tự thực hiện. Trên tinh thần “tương thân tương ái”, “giúp người là giúp mình”, nhiều tổ chức phi lợi nhuận được thành lập với mục đích cứu trợ nhân đạo, giúp đỡ và hỗ trợ sinh kế cho những người có hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống, tham gia vào hoạt động bảo vệ môi trường…
2. Những vấn đề đặt ra trong hoạt động cung ứng dịch vụ xã hội của các tổ chức phi lợi nhuận
Về hệ thống văn bản pháp luật. Tại Việt Nam, hệ thống pháp luật điều chỉnh cơ chế hoạt động tổ chức phi lợi nhuận chưa hoàn thiện, thiếu văn bản pháp quy cụ thể, rõ ràng; chưa có sự phân biệt rạch ròi giữa hoạt động phi lợi nhuận của các đơn vị tư nhân với khu vực nhà nước nên một số chính sách áp dụng đối với khu vực này chưa bảo đảm sự bình đẳng và tạo động lực để cả hai khu vực cùng phát triển. Đối với cơ chế hoạt động phi lợi nhuận trong các đơn vị cung ứng dịch vụ công, dịch vụ xã hội trong khu vực tư nhân vẫn còn thiếu các văn bản điều chỉnh, nhiều vấn đề hoạt động phi lợi nhuận chưa được làm rõ, còn vướng mắc trong thực tiễn.
Về cơ chế hoạt động, nguồn nhân lực. Đa phần các tổ chức phi lợi nhuận cung ứng dịch vụ xã hội vẫn hoạt động theo mô hình tự phát, chỉ có những tổ chức phi lợi nhuận nước ngoài hoặc các tập đoàn có nguồn lực dồi dào mới có khả năng xây dựng cơ chế hoạt động chuyên nghiệp. Còn lại, do không có điều kiện đào tạo bài bản, phần lớn năng lực của đội ngũ lãnh đạo tại các tổ chức phi lợi nhuận cung ứng dịch vụ y tế, giáo dục có quy mô vừa và nhỏ còn nhiều hạn chế. Đặc biệt, đội ngũ bác sĩ, giáo viên chủ yếu thực hiện công việc chuyên môn, do đó xuất hiện nhiều bất cập trong quản trị nguồn nhân lực, hạ tầng kỹ thuật, trang thiết bị, dễ làm thất thoát, lãng phí nguồn lực… Trong điều kiện hệ thống thông tin, giám sát còn yếu, tính công khai, minh bạch và tính giải trình, chịu trách nhiệm còn hạn chế, những hạn chế này phần nào ảnh hưởng đến lòng tin của các nhà đầu tư và nhà tài trợ đối với các tổ chức phi lợi nhuận cung ứng dịch vụ xã hội. Đây cũng chính là nguyên nhân cản trở việc mở rộng quy mô hoạt động của các tổ chức phi lợi nhuận cung ứng dịch vụ xã hội.
Về cơ chế tài chính, phân chia lợi nhuận. Bản chất của các tổ chức phi lợi nhuận cung ứng dịch vụ xã hội là hoạt động không vì lợi nhuận, nhưng hiện nay, vấn đề tài chính, phân chia lợi nhuận của một số tổ chức chưa hẳn thể hiện đúng bản chất ban đầu. Cơ chế khuyến khích tăng thu nhập dẫn đến tình trạng thương mại hóa hệ thống giáo dục, y tế, đồng nghĩa với việc học sinh, sinh viên và bệnh nhân là đối tượng tăng thu và có thể gây mất công bằng trong tiếp cận các chương trình đào tạo tiến bộ và chăm sóc sức khỏe; tăng gánh nặng chi phí cho người học, bệnh nhân… từ đó làm hạn chế khả năng tiếp cận dịch vụ của người dân, đặc biệt là người nghèo, cận nghèo, không có thẻ bảo hiểm y tế và nhóm xã hội yếu thế.
Về cơ chế kiểm tra, thanh tra, giám sát của nhà nước. Cho đến nay, Nhà nước vẫn thiếu cơ chế theo dõi, kiểm soát chất lượng và giá thành dịch vụ xã hội do các tổ chức phi lợi nhuận cung cấp, nên người dân vẫn phải chi trả với mức phí cao, trong khi các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn hơn không thể tiếp cận với các dịch vụ này.
3. Phát triển dịch vụ xã hội phi lợi nhuận góp phần thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội
Việc thúc đẩy hình thành, phát triển các tổ chức phi lợi nhuận cung ứng dịch vụ xã hội là một trong những phương cách để góp phần thực hiện mục tiêu tiến bộ và công bằng xã hội, chăm lo ngày càng tốt hơn đời sống của nhân dân, lấy định hướng xã hội chủ nghĩa để khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường, thể hiện tính ưu việt của xã hội xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu đó, cần thực hiện một số giải pháp:
Một là, hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức phi lợi nhuận cung ứng dịch vụ xã hội tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho các tổ chức phi lợi nhuận cung ứng dịch vụ xã hội, khắc phục những bất cập xung quanh các quy định về sở hữu, mô hình quản trị, phân chia lợi nhuận trong hoạt động của các tổ chức phi lợi nhuận cung ứng dịch vụ xã hội, bảo đảm sự ổn định và thúc đẩy phát triển của hệ thống cung ứng dịch vụ xã hội.
Hai là, xây dựng cơ chế hoạt động thống nhất, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Nguồn nhân lực nói chung, nhân lực chất lượng cao nói riêng là tài nguyên quý giá trong việc phát triển tổ chức phi lợi nhuận, nhất là khi nguồn nhân lực này thường xuyên biến động và thay đổi, nên cần quan tâm thu hút, đào tạo, bồi dưỡng để phục vụ tôn chỉ, mục đích hoạt động của tổ chức mình. Thường xuyên tiến hành điều tra, khảo sát về nhân lực và chất lượng của tổ chức, xác định các nội dung thiếu, yếu để tổ chức bồi dưỡng, đào tạo đáp ứng nhu cầu phát triển chung. Ngoài ra, cũng cần nâng cao hiệu quả công tác quản lý và sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao; có cơ chế quản lý, sử dụng lao động từ tuyển chọn, bố trí, đánh giá đến chế độ đãi ngộ, chăm lo mọi mặt đời sống cho người lao động. Cần dự báo chiến lược về nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao, trên cơ sở đó có sự đầu tư đúng mức, hợp lý nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, mang lại hiệu quả thiết thực đối với sự phát triển của tổ chức.
Ba là, tăng cường minh bạch trong quản lý tài chính. Đối với công tác quản lý tài chính, cần xây dựng hình thức tổ chức phi lợi nhuận không có cổ đông và vận hành bằng hội đồng quản lý như mô hình tại các nước phát triển. Hội đồng quản lý được hiểu là một tổ chức quản trị, đại diện quyền sở hữu của tổ chức phi lợi nhuận; là bộ phận có thẩm quyền cao nhất trong đơn vị, quyết định về chủ trương, phương hướng, kế hoạch hoạt động, tài chính và công tác nhân sự; kiểm tra, giám sát việc thực hiện mục tiêu, kế hoạch hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ của đơn vị. Hội đồng này làm việc và quản lý tài chính theo nguyên tắc dân chủ, khách quan, trung thực, tuân thủ pháp luật và đạo đức nghề nghiệp. Đối với hoạt động phân phối lợi nhuận, cần xây dựng cơ chế quy định rõ về phần chênh lệch giữa thu và chi trong hoạt động cung ứng dịch vụ xã hội của các tổ chức phi lợi nhuận phải được dùng để tái đầu tư cho mục đích phát triển, hỗ trợ phục vụ cộng đồng. Để minh bạch tài chính với các cổ đông, nhà hảo tâm, các tổ chức phi lợi nhuận cần thực hiện kiểm toán độc lập như các doanh nghiệp.
Bốn là, tăng cường quản lý nhà nước, thiết lập cơ chế kiểm tra, thanh tra, giám sát. Thông qua việc xây dựng chiến lược, quy hoạch định hướng phát triển mạng lưới đa chủ thể cung ứng dịch vụ xã hội, ban hành các quy chuẩn về chất lượng dịch vụ xã hội, đồng thời kiểm tra, giám sát việc tuân thủ theo luật pháp và thực hiện đúng các chủ trương của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực này. Quy định các tiêu chuẩn, định mức, chất lượng, giá, phí của dịch vụ xã hội và công khai các tiêu chuẩn này trên phương tiện thông tin đại chúng. Có chính sách huy động nguồn lực của cộng đồng về kiến thức chuyên môn, cơ sở vật chất, nguồn lực tài chính để phát triển tổ chức. Quy định rõ nội dung và trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong hoạt động thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật của các tổ chức phi lợi nhuận cung ứng dịch vụ xã hội, nhất là chất lượng dịch vụ xã hội, quy trình quản lý tài chính và mục tiêu sử dụng tài sản của những tổ chức này.
Xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật đối với những tổ chức phi lợi nhuận sử dụng lợi nhuận thu được để chia cho các cá nhân, sử dụng các nguồn lực của tổ chức, lợi dụng các chính sách ưu đãi và hỗ trợ về thuế để thực hiện các hoạt động kinh doanh vì lợi nhuận. Tăng cường sự giám sát của người dân đối với hoạt động của các tổ chức phi lợi nhuận trong nước và quốc tế cung ứng dịch vụ xã hội vi phạm các chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước, truyền đạo trái pháp luật, những tư tưởng lệch lạc, không đúng thuần phong, mỹ tục và văn hóa truyền thống của dân tộc. Sớm nghiên cứu, hoàn thiện và thực hiện bộ công cụ lấy ý kiến đánh giá sự hài lòng của người dân đối với các dịch vụ xã hội do tổ chức phi lợi nhuận tham gia cung ứng.
Năm là, tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân về tổ chức phi lợi nhuận cung ứng dịch vụ xã hội. Bắt nguồn từ trình độ nhận thức, chênh lệch thu nhập giữa các khu vực, Nhà nước cần xây dựng các chương trình tuyên truyền đặc thù, phù hợp với từng đối tượng, tầng lớp khác nhau. Đặc biệt, cần thường xuyên đổi mới nội dung và hình thức các hoạt động tuyên truyền, quán triệt chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về phát triển dịch vụ xã hội phi lợi nhuận, nhằm nâng cao nhận thức của các cấp ủy, chính quyền và toàn thể nhân dân; qua đó tạo sự đồng thuận, tham gia của nhiều chủ thể, nâng cao hiệu quả cung ứng dịch vụ xã hội phi lợi nhuận trong thời gian tới./.
__________________________________________________
(1) Báo cáo số 1611/BC-BYT, ngày 31.12.2019, của Bộ Y tế “Tổng kết công tác y tế năm 2019 và nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu năm 2020”
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 19.7.2022
Bài liên quan
- Giới thiệu Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông số tháng 10 năm 2025
- Cán bộ nữ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trước yêu cầu thay đổi: Tâm thế và khả năng thích nghi
- Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện chính sách nhà ở xã hội - Thực trạng và giải pháp
- Giải pháp tăng cường vai trò lãnh đạo của Tỉnh ủy Phú Thọ trong phát triển kinh tế hiện nay
- Thực trạng trải nghiệm định kiến giới của nữ sinh viên Hà Nội và một số khuyến nghị
Xem nhiều
-
1
Quảng bá di sản văn hóa phi vật thể trên các kênh truyền thông số: Đặc trưng và những yêu cầu đặt ra
-
2
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thông tin về sách giáo khoa trên báo mạng điện tử Việt Nam
-
3
Phát triển lực lượng sản xuất chất lượng mới ở Việt Nam hướng tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa
-
4
Diễn ngôn truyền thông về “Vành đai, Con đường”: So sánh giữa Trung Quốc và Đông Nam Á
-
5
Thực trạng chất lượng truyền thông bằng hình ảnh trên chuyên trang media của báo Lao Động điện tử
-
6
Đầu tư cơ sở vật chất tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong giai đoạn hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học tại Trường Chính trị tỉnh Lào Cai trong tình hình mới
Nghiên cứu khoa học là một trong hai chức năng cơ bản, gắn bó mật thiết với nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tại các trường chính trị tỉnh, thành phố. Đối với Trường Chính trị tỉnh Lào Cai - trung tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của tỉnh - nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học không chỉ góp phần trực tiếp nâng cao chất lượng giảng dạy, mà còn bổ sung luận cứ khoa học và thực tiễn phục vụ cho công tác lãnh đạo, quản lý, phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Trong bối cảnh Lào Cai sau sáp nhập đang hướng tới phát triển nhanh và bền vững, yêu cầu nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học trở nên cấp thiết, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
Giới thiệu Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông số tháng 10 năm 2025
Giới thiệu Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông số tháng 10 năm 2025
Đến hẹn lại lên, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông số tháng 10 ra mắt bạn đọc với nhiều bài viết giàu giá trị nghiên cứu khoa học và thực tiễn.
Cán bộ nữ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trước yêu cầu thay đổi: Tâm thế và khả năng thích nghi
Cán bộ nữ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trước yêu cầu thay đổi: Tâm thế và khả năng thích nghi
Trong bối cảnh đất nước đang bước vào giai đoạn phát triển mới với nhiều thay đổi mang tính căn bản và toàn diện, hệ thống Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cũng đang triển khai mạnh mẽ quá trình chuyển đổi nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và quản trị tổ chức. Quá trình này diễn ra ở nhiều chiều cạnh: từ cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động, văn hóa làm việc đến yêu cầu về năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ. Trong đó, đội ngũ nữ cán bộ, giảng viên, người lao động của Học viện giữ vai trò đặc biệt quan trọng, không chỉ là lực lượng nòng cốt trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn mà còn là những chủ thể tích cực tham gia kiến tạo môi trường làm việc đổi mới, nhân văn và phát triển bền vững. Trước yêu cầu thay đổi nhanh chóng, việc xây dựng tâm thế chủ động, nâng cao năng lực thích nghi và khả năng cân bằng của nữ cán bộ trở thành yếu tố then chốt, góp phần khẳng định vị thế của phụ nữ Học viện trong tiến trình chuyển đổi, đồng thời tạo nền tảng cho sự phát triển ổn định, lâu dài của đơn vị.
Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện chính sách nhà ở xã hội - Thực trạng và giải pháp
Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện chính sách nhà ở xã hội - Thực trạng và giải pháp
Trong quá trình đô thị hóa nhanh và áp lực dân số gia tăng, Thành phố Hồ Chí Minh đang đối mặt với một bài toán phức tạp: làm sao để đảm bảo chỗ ở phù hợp cho người dân, đặc biệt là các nhóm thu nhập thấp. Trong bối cảnh đó, tổ chức thực hiện chính sách nhà ở xã hội không chỉ là một nhiệm vụ hành chính đơn thuần, mà đã trở thành một sứ mệnh chiến lược, có ảnh hưởng sâu sắc đến mục tiêu phát triển đô thị bền vững, ổn định thị trường bất động sản và nâng cao chất lượng sống toàn diện. Trong khuôn khổ bài viết tập trung làm rõ những phương thức thực hiện cụ thể của chính quyền thành phố trong việc thực hiện mục tiêu này và đưa ra một số kiến nghị để nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách trong thời gian tới.
Giải pháp tăng cường vai trò lãnh đạo của Tỉnh ủy Phú Thọ trong phát triển kinh tế hiện nay
Giải pháp tăng cường vai trò lãnh đạo của Tỉnh ủy Phú Thọ trong phát triển kinh tế hiện nay
Phát triển kinh tế là một trong những nội dung then chốt, đột phá chiến lược luôn được Tỉnh ủy Phú Thọ chú trọng trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo. Trên cơ sở đó, bức tranh kinh tế của tỉnh đã có nhiều khởi sắc đáng kể, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những khó khăn nhất định, đòi hỏi cần có hệ thống giải pháp phù hợp và hiệu quả để kịp thời tháo gỡ, thúc đẩy phát triển bền vững.
llcttt1994dientu@gmail.com
024.38348033
Bình luận