Đẩy mạnh phát triển dịch vụ xã hội phi lợi nhuận ở Việt Nam
1. Thực trạng phát triển dịch vụ xã hội phi lợi nhuận ở Việt Nam
Thời gian qua, ở Việt Nam xuất hiện nhiều tổ chức phi lợi nhuận chủ động cung ứng dịch vụ xã hội cho những đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương và giải quyết các nhu cầu cộng đồng, bao gồm: tổ chức cứu trợ, quỹ từ thiện xã hội, các hiệp hội, tổ chức khoa học và công nghệ, nhóm tình nguyện…, thường tập trung nhiều vào một số lĩnh vực, như giáo dục, y tế, hỗ trợ cộng đồng…
Trong lĩnh vực giáo dục, để khuyến khích các chủ thể trong xã hội tham gia phát triển dịch vụ xã hội phi lợi nhuận, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp quy điều chỉnh hoạt động của các chủ thể đang tham gia cung ứng dịch vụ giáo dục, như: Nghị định số 53/2006/NĐ-CP, ngày 25.5.2006, của Chính phủ, “Về chính sách khuyến khích phát triển các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công lập”; Luật Giáo dục đại học năm 2012; Nghị định số 16/2015/NĐ-CP, ngày 14.2.2015, của Chính phủ, về “Quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập”… Tuy nhiên, trong từng phân khúc, các đối tượng cung ứng vẫn chưa phát huy triệt để vai trò của mình.
Đơn cử, trong phân khúc giáo dục mầm non, khu vực công vẫn giữ vai trò chủ đạo, số lượng các trường ngoài công lập tăng nhẹ và đa phần hoạt động dựa trên nguyên tắc lợi nhuận. Minh chứng, năm học 2015 - 2016, số trường ngoài công lập chiếm 14,12%, đến năm học 2019 - 2020 tăng lên 19,53%; số lượng tổ chức phi lợi nhuận cung cấp dịch vụ rất hạn chế, tiêu biểu có Trường mầm non thuộc hệ thống Vinschool, Trường mầm non thuộc hiệp hội Montessori Hoa Kỳ (Hà Nội), Trường Mẫu giáo Dona Standard (tỉnh Đồng Nai)… Nhìn chung, các tổ chức phi lợi nhuận tham gia cung ứng dịch vụ giáo dục đã góp phần đa dạng hóa các hình thức cung ứng, tạo sự cạnh tranh giữa các chủ thể, thúc đẩy cải thiện chất lượng, mang lại nhiều sự lựa chọn hơn cho người dân.
Lĩnh vực y tế có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với đời sống người dân. Vì vậy, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy định về cơ chế hoạt động của các tổ chức cung ứng dịch vụ, như: Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009; Nghị định số 85/2012/NĐ-CP, ngày 15.12.2012, của Chính phủ “Về cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp y tế công lập và giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh của các cơ sở khám chữa bệnh công lập”; Nghị định số 16/2015/NĐ-CP, ngày 14.2.2015, của Chính phủ “Quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập”…
Nhờ vậy, các loại hình chăm sóc sức khỏe của nhân dân ngày càng đa dạng, từ công lập đến ngoài công lập, từ đóng góp của người dân đến tài trợ của các tổ chức nước ngoài, các hình thức liên kết… Hiện nay, bên cạnh vai trò chủ đạo của hệ thống y tế công lập, hệ thống y tế ngoài công lập ngày càng phát triển cả về lượng và chất, song đa phần vẫn là các tổ chức y tế tư nhân hoạt động vì lợi nhuận. Năm 2010, chỉ có 102 bệnh viện với 5.800 giường bệnh, đến năm 2019, đã tăng lên 231 bệnh viện (chiếm 19,4% tổng số bệnh viện) với khoảng 16.000 giường bệnh (chiếm 5% tổng số giường bệnh, tỷ lệ 1,7 giường/vạn dân) và trên 35.000 phòng khám ngoài công lập, cung cấp 43% dịch vụ ngoại trú và 2,1% tổng số dịch vụ nội trú. Trong số các bệnh viện ngoài công lập có trang thiết bị hiện đại, cung cấp dịch vụ y tế kỹ thuật cao, đã xuất hiện mô hình cơ sở y tế ngoài công lập hoạt động không vì lợi nhuận, điển hình là hệ thống y tế Vinmec(1). Thực tế, bên cạnh các dịch vụ y tế từ thiện, các tổ chức phi lợi nhuận tham gia cung ứng dịch vụ y tế đã có những đóng góp lớn trong hoạt động chăm sóc sức khỏe của người dân, góp phần giảm tải áp lực khám, chữa bệnh thông thường đối với các bệnh viện công đang bị quá tải.
Các lĩnh vực hỗ trợ cộng đồng. Đời sống vật chất được nâng lên, kéo theo nhu cầu thụ hưởng về dịch vụ công của người dân không ngừng gia tăng. Vì vậy, số lượng các tổ chức phi lợi nhuận tham gia vào cung ứng các dịch vụ công ngày càng nhiều. Các sự kiện văn hóa, thể thao được tổ chức bởi các tổ chức phi lợi nhuận thường hướng đến những cá nhân có hoàn cảnh khó khăn hoặc khu vực tập trung nhiều người mong muốn được thụ hưởng các dịch vụ mà những điều kiện sẵn có không cho phép họ tự thực hiện. Trên tinh thần “tương thân tương ái”, “giúp người là giúp mình”, nhiều tổ chức phi lợi nhuận được thành lập với mục đích cứu trợ nhân đạo, giúp đỡ và hỗ trợ sinh kế cho những người có hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống, tham gia vào hoạt động bảo vệ môi trường…
2. Những vấn đề đặt ra trong hoạt động cung ứng dịch vụ xã hội của các tổ chức phi lợi nhuận
Về hệ thống văn bản pháp luật. Tại Việt Nam, hệ thống pháp luật điều chỉnh cơ chế hoạt động tổ chức phi lợi nhuận chưa hoàn thiện, thiếu văn bản pháp quy cụ thể, rõ ràng; chưa có sự phân biệt rạch ròi giữa hoạt động phi lợi nhuận của các đơn vị tư nhân với khu vực nhà nước nên một số chính sách áp dụng đối với khu vực này chưa bảo đảm sự bình đẳng và tạo động lực để cả hai khu vực cùng phát triển. Đối với cơ chế hoạt động phi lợi nhuận trong các đơn vị cung ứng dịch vụ công, dịch vụ xã hội trong khu vực tư nhân vẫn còn thiếu các văn bản điều chỉnh, nhiều vấn đề hoạt động phi lợi nhuận chưa được làm rõ, còn vướng mắc trong thực tiễn.
Về cơ chế hoạt động, nguồn nhân lực. Đa phần các tổ chức phi lợi nhuận cung ứng dịch vụ xã hội vẫn hoạt động theo mô hình tự phát, chỉ có những tổ chức phi lợi nhuận nước ngoài hoặc các tập đoàn có nguồn lực dồi dào mới có khả năng xây dựng cơ chế hoạt động chuyên nghiệp. Còn lại, do không có điều kiện đào tạo bài bản, phần lớn năng lực của đội ngũ lãnh đạo tại các tổ chức phi lợi nhuận cung ứng dịch vụ y tế, giáo dục có quy mô vừa và nhỏ còn nhiều hạn chế. Đặc biệt, đội ngũ bác sĩ, giáo viên chủ yếu thực hiện công việc chuyên môn, do đó xuất hiện nhiều bất cập trong quản trị nguồn nhân lực, hạ tầng kỹ thuật, trang thiết bị, dễ làm thất thoát, lãng phí nguồn lực… Trong điều kiện hệ thống thông tin, giám sát còn yếu, tính công khai, minh bạch và tính giải trình, chịu trách nhiệm còn hạn chế, những hạn chế này phần nào ảnh hưởng đến lòng tin của các nhà đầu tư và nhà tài trợ đối với các tổ chức phi lợi nhuận cung ứng dịch vụ xã hội. Đây cũng chính là nguyên nhân cản trở việc mở rộng quy mô hoạt động của các tổ chức phi lợi nhuận cung ứng dịch vụ xã hội.
Về cơ chế tài chính, phân chia lợi nhuận. Bản chất của các tổ chức phi lợi nhuận cung ứng dịch vụ xã hội là hoạt động không vì lợi nhuận, nhưng hiện nay, vấn đề tài chính, phân chia lợi nhuận của một số tổ chức chưa hẳn thể hiện đúng bản chất ban đầu. Cơ chế khuyến khích tăng thu nhập dẫn đến tình trạng thương mại hóa hệ thống giáo dục, y tế, đồng nghĩa với việc học sinh, sinh viên và bệnh nhân là đối tượng tăng thu và có thể gây mất công bằng trong tiếp cận các chương trình đào tạo tiến bộ và chăm sóc sức khỏe; tăng gánh nặng chi phí cho người học, bệnh nhân… từ đó làm hạn chế khả năng tiếp cận dịch vụ của người dân, đặc biệt là người nghèo, cận nghèo, không có thẻ bảo hiểm y tế và nhóm xã hội yếu thế.
Về cơ chế kiểm tra, thanh tra, giám sát của nhà nước. Cho đến nay, Nhà nước vẫn thiếu cơ chế theo dõi, kiểm soát chất lượng và giá thành dịch vụ xã hội do các tổ chức phi lợi nhuận cung cấp, nên người dân vẫn phải chi trả với mức phí cao, trong khi các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn hơn không thể tiếp cận với các dịch vụ này.
3. Phát triển dịch vụ xã hội phi lợi nhuận góp phần thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội
Việc thúc đẩy hình thành, phát triển các tổ chức phi lợi nhuận cung ứng dịch vụ xã hội là một trong những phương cách để góp phần thực hiện mục tiêu tiến bộ và công bằng xã hội, chăm lo ngày càng tốt hơn đời sống của nhân dân, lấy định hướng xã hội chủ nghĩa để khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường, thể hiện tính ưu việt của xã hội xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu đó, cần thực hiện một số giải pháp:
Một là, hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức phi lợi nhuận cung ứng dịch vụ xã hội tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho các tổ chức phi lợi nhuận cung ứng dịch vụ xã hội, khắc phục những bất cập xung quanh các quy định về sở hữu, mô hình quản trị, phân chia lợi nhuận trong hoạt động của các tổ chức phi lợi nhuận cung ứng dịch vụ xã hội, bảo đảm sự ổn định và thúc đẩy phát triển của hệ thống cung ứng dịch vụ xã hội.
Hai là, xây dựng cơ chế hoạt động thống nhất, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Nguồn nhân lực nói chung, nhân lực chất lượng cao nói riêng là tài nguyên quý giá trong việc phát triển tổ chức phi lợi nhuận, nhất là khi nguồn nhân lực này thường xuyên biến động và thay đổi, nên cần quan tâm thu hút, đào tạo, bồi dưỡng để phục vụ tôn chỉ, mục đích hoạt động của tổ chức mình. Thường xuyên tiến hành điều tra, khảo sát về nhân lực và chất lượng của tổ chức, xác định các nội dung thiếu, yếu để tổ chức bồi dưỡng, đào tạo đáp ứng nhu cầu phát triển chung. Ngoài ra, cũng cần nâng cao hiệu quả công tác quản lý và sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao; có cơ chế quản lý, sử dụng lao động từ tuyển chọn, bố trí, đánh giá đến chế độ đãi ngộ, chăm lo mọi mặt đời sống cho người lao động. Cần dự báo chiến lược về nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao, trên cơ sở đó có sự đầu tư đúng mức, hợp lý nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, mang lại hiệu quả thiết thực đối với sự phát triển của tổ chức.
Ba là, tăng cường minh bạch trong quản lý tài chính. Đối với công tác quản lý tài chính, cần xây dựng hình thức tổ chức phi lợi nhuận không có cổ đông và vận hành bằng hội đồng quản lý như mô hình tại các nước phát triển. Hội đồng quản lý được hiểu là một tổ chức quản trị, đại diện quyền sở hữu của tổ chức phi lợi nhuận; là bộ phận có thẩm quyền cao nhất trong đơn vị, quyết định về chủ trương, phương hướng, kế hoạch hoạt động, tài chính và công tác nhân sự; kiểm tra, giám sát việc thực hiện mục tiêu, kế hoạch hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ của đơn vị. Hội đồng này làm việc và quản lý tài chính theo nguyên tắc dân chủ, khách quan, trung thực, tuân thủ pháp luật và đạo đức nghề nghiệp. Đối với hoạt động phân phối lợi nhuận, cần xây dựng cơ chế quy định rõ về phần chênh lệch giữa thu và chi trong hoạt động cung ứng dịch vụ xã hội của các tổ chức phi lợi nhuận phải được dùng để tái đầu tư cho mục đích phát triển, hỗ trợ phục vụ cộng đồng. Để minh bạch tài chính với các cổ đông, nhà hảo tâm, các tổ chức phi lợi nhuận cần thực hiện kiểm toán độc lập như các doanh nghiệp.
Bốn là, tăng cường quản lý nhà nước, thiết lập cơ chế kiểm tra, thanh tra, giám sát. Thông qua việc xây dựng chiến lược, quy hoạch định hướng phát triển mạng lưới đa chủ thể cung ứng dịch vụ xã hội, ban hành các quy chuẩn về chất lượng dịch vụ xã hội, đồng thời kiểm tra, giám sát việc tuân thủ theo luật pháp và thực hiện đúng các chủ trương của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực này. Quy định các tiêu chuẩn, định mức, chất lượng, giá, phí của dịch vụ xã hội và công khai các tiêu chuẩn này trên phương tiện thông tin đại chúng. Có chính sách huy động nguồn lực của cộng đồng về kiến thức chuyên môn, cơ sở vật chất, nguồn lực tài chính để phát triển tổ chức. Quy định rõ nội dung và trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong hoạt động thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật của các tổ chức phi lợi nhuận cung ứng dịch vụ xã hội, nhất là chất lượng dịch vụ xã hội, quy trình quản lý tài chính và mục tiêu sử dụng tài sản của những tổ chức này.
Xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật đối với những tổ chức phi lợi nhuận sử dụng lợi nhuận thu được để chia cho các cá nhân, sử dụng các nguồn lực của tổ chức, lợi dụng các chính sách ưu đãi và hỗ trợ về thuế để thực hiện các hoạt động kinh doanh vì lợi nhuận. Tăng cường sự giám sát của người dân đối với hoạt động của các tổ chức phi lợi nhuận trong nước và quốc tế cung ứng dịch vụ xã hội vi phạm các chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước, truyền đạo trái pháp luật, những tư tưởng lệch lạc, không đúng thuần phong, mỹ tục và văn hóa truyền thống của dân tộc. Sớm nghiên cứu, hoàn thiện và thực hiện bộ công cụ lấy ý kiến đánh giá sự hài lòng của người dân đối với các dịch vụ xã hội do tổ chức phi lợi nhuận tham gia cung ứng.
Năm là, tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân về tổ chức phi lợi nhuận cung ứng dịch vụ xã hội. Bắt nguồn từ trình độ nhận thức, chênh lệch thu nhập giữa các khu vực, Nhà nước cần xây dựng các chương trình tuyên truyền đặc thù, phù hợp với từng đối tượng, tầng lớp khác nhau. Đặc biệt, cần thường xuyên đổi mới nội dung và hình thức các hoạt động tuyên truyền, quán triệt chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về phát triển dịch vụ xã hội phi lợi nhuận, nhằm nâng cao nhận thức của các cấp ủy, chính quyền và toàn thể nhân dân; qua đó tạo sự đồng thuận, tham gia của nhiều chủ thể, nâng cao hiệu quả cung ứng dịch vụ xã hội phi lợi nhuận trong thời gian tới./.
__________________________________________________
(1) Báo cáo số 1611/BC-BYT, ngày 31.12.2019, của Bộ Y tế “Tổng kết công tác y tế năm 2019 và nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu năm 2020”
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 19.7.2022
Bài liên quan
- Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
- Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
- Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
- Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
- Quản lý hình ảnh về phụ nữ dân tộc thiểu số Việt Nam trên các sản phẩm báo ảnh tại Thông tấn xã Việt Nam hiện nay
Xem nhiều
-
1
[Video] Dấu ấn Cách mạng Tháng Tám qua những hiện vật lịch sử
-
2
Những yêu cầu và nguyên tắc phát triển báo chí – truyền thông trong kỷ nguyên mới
-
3
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
-
4
Truyền thông đại chúng trong kỷ nguyên số: động lực đổi mới mô hình phát triển xã hội Việt Nam hiện nay
-
5
Tác động của quảng cáo sản phẩm trên mạng xã hội đến hành vi mua sắm của học sinh trung học phổ thông Hà Nội
-
6
Báo chí với xây dựng văn hóa số ở Việt Nam hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Phát huy vai trò của báo chí trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng, “kim chỉ nam” dẫn dắt dân tộc Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong bối cảnh mới, công cuộc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là cuộc chiến của lý luận, để bảo vệ lý tưởng và củng cố niềm tin vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Trước sự chống phá của các thế lực thù địch ngày càng gia tăng cả về quy mô lẫn mức độ tinh vi, nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trở nên cấp bách hơn; trong đó, báo chí đóng vai trò hết sức quan trọng.
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
Trong suốt hơn hai thập kỷ đầu thế kỷ XXI, tên của Tổng thống Vladimir Putin đã trở thành biểu tượng gắn liền với tiến trình phát triển và chuyển mình của Liên bang Nga. Từ một quốc gia đối mặt với khủng hoảng kinh tế - chính trị nghiêm trọng sau khi Liên Xô tan rã, nước Nga dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Putin đã từng bước khôi phục ổn định, nâng cao vị thế quốc tế và củng cố bản sắc quốc gia. Dù vẫn còn không ít tranh cãi, không thể phủ nhận rằng Tổng thống Vladimir Putin đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử nước Nga hiện đại như một nhà lãnh đạo có ảnh hưởng lớn lao và lâu dài. Bài viết được thực hiện với mục đích phân tích các giai đoạn cầm quyền của ông, từ đó làm rõ những đóng góp, lựa chọn chiến lược và quyết sách của Ông đối với vận mệnh quốc gia. Qua đó, góp phần lý giải vì sao Tổng thống Vladimir Putin được xem là “người sẽ cứu nước Nga” trong thời kỳ chuyển giao và định hình bản sắc, quyền lực quốc gia hậu Xô Viết.
Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Công cuộc tinh gọn bộ máy nhà nước là một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm hiện thực hóa mục tiêu xây dựng nền hành chính nhà nước hiện đại, hiệu lực, hiệu năng, hiệu quả, phục vụ nhân dân. Trong tiến trình đó, công tác cán bộ đóng vai trò trung tâm, bởi cán bộ chính là người tổ chức và thực thi cải cách. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, công tác cán bộ hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, chưa thực sự tương xứng với yêu cầu đổi mới bộ máy nhà nước. Bài viết tiếp cận vấn đề từ nền tảng lý luận Mác, Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn kiện Đảng để phân tích những vấn đề lý luận, thực tiễn trong đổi mới công tác cán bộ, từ đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu cải cách hệ thống chính trị trong bối cảnh mới.
Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
Trong bối cảnh chuyển đổi số y tế đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn quốc, một số bệnh viện tuyến trung ương đã bước đầu ứng dụng truyền thông số hiệu quả trong tư vấn tâm lý – xã hội, kết nối cộng đồng và vận động nguồn lực, tuy nhiên, phần lớn bệnh viện tuyến tỉnh, huyện chưa có điều kiện triển khai đầy đủ. Bài viết đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm tích hợp truyền thông số vào hoạt động công tác xã hội (CTXH) tại bệnh viện, góp phần định hướng phát triển CTXH bệnh viện theo hướng chuyên nghiệp, công bằng và thích ứng với bối cảnh số hóa y tế đến năm 2030.
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
Theo thống kê trong giai đoạn từ 2013 – 2023 cho thấy độ tuổi kết hôn trung bình của người dân đang có xu hướng tăng(1). Vì vậy, nhóm tác giả đã thực hiện nghiên cứu nhằm làm rõ những nhân tố ảnh hưởng tới hành vi này tại Việt Nam. Bài nghiên cứu chỉ ra sự thay đổi trong độ tuổi kết hôn của người dân Việt Nam, đồng thời phân tích rõ ảnh hưởng của những nhân tố như trình độ học vấn, nền tảng gia đình, địa lý, chi phí sinh hoạt, thu nhập, nghề nghiệp và truyền thông tới việc trì hoãn kết hôn, thông qua dữ liệu từ cuộc khảo sát gồm 736 người trong độ tuổi từ 18 – 35, trải rộng khắp các vùng miền của Việt Nam. Qua đó, nhóm tác giả nêu lên một số đánh giá về tác động của hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ tới sự phát triển của kinh tế - xã hội. Sau cùng, nhóm tác giả đề xuất giải pháp để giải quyết vấn đề trì hoãn kết hôn của người trẻ Việt Nam hiện nay.
Bình luận