Đổi mới và phát triển bền vững nền nông nghiệp Việt Nam trong giai đoạn mới
Thế giới vật chất vô cùng phức tạp, đa dạng nhưng suy cho cùng, các yếu tố vật chất cơ bản: “Con người - xã hội - tự nhiên” hay “tự nhiên - con người - xã hội” đều tồn tại trong tự nhiên và cùng tham gia vào chu trình sinh học cơ bản - một chu trình trao đổi vật chất, năng lượng, thông tin giữa sinh thể với môi trường xung quanh. Sự thống nhất của 3 yếu tố cơ bản nêu trên (con người - xã hội - tự nhiên) được bảo đảm nhờ có chế hoạt động của chu trình sinh học, tuân thủ theo nguyên tắc: tự tổ chức, tự điều tiết, tự cân bằng và bảo vệ theo một trật tự liên hoàn chặt chẽ mà mỗi yếu tố trong đó đều có trách nhiệm và quyền lợi rõ ràng. Đó là sự vận động khách quan bảo đảm cho sự phát triển cân bằng bền vững trong mối quan hệ biện chứng giữa con người - xã hội - tự nhiên.
Khi con người nhận thức được các quy luật tự nhiên và xã hội, vận dụng các quy luật đó một cách khoa học và hoạt động thực tiễn, đặc biệt là hoạt động sản xuất và đời sống xã hội nhằm bảo đảm sản xuất phát triển, đời sống được cải thiện, điều đó thể hiện vai trò chủ thể tích cực của con người đối với mối quan hệ giữa con người - xã hội - tự nhiên.
Tuy nhiên hiện nay con người đang đứng trước những thách thức to lớn về sự sống còn của mình do sự phá huỷ môi trường và tình trạng cạn kiệt tài nguyên gây nên. Muốn vượt qua những thách thức đó, không còn cách nào khác là phải xây dựng và thực hiện một chiến lược phát triển mới, mang tính dài hạn, là con đường phát triển tất yếu của các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Chiến lược đó phải đảm bảo thực hiện được 3 mục tiêu cơ bản: mục tiêu kinh tế; mục tiêu xã hội, nhân văn; mục tiếuinh thái, môi trường. Thực hiện được yêu cầu đó sẽ là bước phát triển mới về nhận thức của con người, đảm bảo cho sự phát triển bền vững giữa con người - xã hội - tự nhiên, đáp ứng nhu cầu kinh tế, xã hội cũng như môi trường không chỉ cho thế hệ con người hôm nay mà còn cho các thế hệ con người trong tương lai.
Nhận thức được tầm quan trọng và tính bức thiết của vấn đề bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, ngay sau Tuyên bố Rio, nhà nước ta đã ban hành Luật Bảo vệ môi trường năm 1993. Sau đó đãn hình thành một hệ thống các văn bản qui phạm pháp luật và hệ thống quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường. Ngày 26.8.1998, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 36/CT/TƯ về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước; ngày 15.11.2004, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 41/NQ/TƯ về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Nghị quyết đại hội lần thứ IX của Đảng, chiến lược phát triển KT - XH 10 năm (2001 - 2010) và kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm (2001 - 2005) của nước ta đã khẳng định: “Phát triển nhanh, hiệu quả bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường” và “phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học”. Rõ ràng là, phát triển bền vững đã trở thành đường lối, quan điểm và giải pháp thực hiện từ rất sớm của Đảng và nhà nước ta. Và để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững đất nước như đã đề ra, ngày 17.8.2004, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg về định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (chương trình ngị sự 21 của Việt Nam). Hơn nữa với những nước nghèo như Việt Nam, mà cuộc sống của đa số nhân dân phụ thuộc chính vào khai thác các loại tài nguyên thiên nhiên, thì tính bền vững về sinh thái và kinh tế cũng quan trọng như tính bền vững về xã hội trong quá trình phát triển. Cũng vì vậy, nếu sự phá huỷ môi trường làm tổn hại đến các hệ sinh thái - cơ sở cho sự sinh trưởng của các sản lượng sinh học, như đất nước, các quần thể động vật, thực vật, rừng, đất ngập nước, biển, bờ biển, với nhịp điệu như hiện nay - thì sự phát triển bền vững không thể thực hiện được. Vì thế trước mắt cũng như lâu dài, sự phát triển nông nghiệp bền vững (bao gồm cả lâm và ngư nghiệp) có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển bền vững nền kinh tế đất nước.
Nhìn lại 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới và thực hiện phát triển bền vững, nền nông nghiêp và kinh tế nông thôn Việt Nam đã có bước phát triển quan trọng. Nền nông nghiệp đang chuyển mạnh từ nền sản xuất tự cung tự cấp theo phương thức truyền thống sang nền sản xuất kinh doanh hàng hoá theo cơ chế thị trường định hướng XHCN và ngày càng hướng và xuất khẩu. Đây là một trong những bước chuyển căn bản có ý nghĩa quan trọng làm thay đổi tính chất, đặc điểm và các mối quan hệ cơ bản trong nông nghiệp, đồng thời tạo ra động lực mới thúc đẩy tăng trưởng và phát triển sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn trong những năm đổi mới vừa qua. Những thành tựu bước đầu được thể hiện trên các mặt chủ yếu sau:
- Giải quyết vững chắc vấn đề an ninh lương thực trên phạm vi toàn quốc. Từ chỗ đất nước luôn trong tình trạng thiếu đói phải nhập khẩu lương thực, đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới với số lượng mỗi năm một tăng.
- Cơ cấu kinh tế nông, lâm, ngư nghiệp đã và đang chuyển dịch đúng hướng. Hình thành ngày càng rõ nét những vùng chuyên môn hoá sản xuất và sự liên kết công - nông nghiệp có hiệu quả trên những địa bàn này.
- Cơ sở hạ tầng sản xuất và đời sống được gia tăng trên cơ sở đầu tư của Nhà nước và tiết kiệm trong dân cư, tạo tiền đề cho phát triển sản xuất và cải thiện đời sống dân cư nông thôn ngày càng tốt hơn.
- Thu thập của các tầng lớp dân cư nông thôn ngày càng tăng, các hộ nông dân bước đầu có tích luỹ, đời sống vật chất văn hoá tinh thần của nông dân được cải thiện rõ rệt.
Sự tăng nhanh sản lượng và đa dạng hoá các loại sản phẩm nông nghiệp thời gian qua đã cơ bản đáp ứng được mọi nhu cầu tiêu dùng của nông dân và tạo ra một khối lượng nông sản hàng hoá lớn, phục vụ nhu cầu trong và ngoài nước nhất là xuất khẩu. Đó là yếu tố quyết định bước chuyển quan trọng của nền nông nghiệp Việt Nam từ tự cung, tự túc sang sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường.. tỷ trọng nông sản hàng hoá những năm gần đây đã chiếm hơn 40% sản lượng nông nghiệp nói chung. Nhiều loại nông sản có khối lượng và tỷ trọng hàng hoá và hàng hoá xuất khẩu lớn như lương thực (hơn 50% là các loại cây công nghiệp (hơn 90 - 97%) và phần lớn các loại sản phẩm ngành chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ sản. Trong 16 năm xuất khẩu gạo (1989 - 2004) Việt Nam đã cung cấp cho thị trường thế giới hơn 45,14 triệu tấn gạo, thu về cho đất nước trên 10,77 tỷ USD. Có 13 trong số 16 năm Việt Nam giữ vị trí thứ 2 thế giới về lượng xuất khẩu gạo (chỉ có 3 năm đứng thứ 3 sau Thái Lan và ấn Độ) và vượt Mỹ liên tục từ năm 1990 đến nay. Trong thời kỳ 4 năm đầu thế kỷ XXI (2001 - 2004), hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam không chỉ tăng về sản lượng mà còn tiến bộ về chất lượng và khả năng cạnh tranh trên thị trường. Năm 2004, mặc dù thời tiết không thuận lợi, sản xuất gặp khó khăn, nhưng nước ta vẫn đạt sản lượng 39,3 triệu tấn lương thực và xuất khẩu 4,55 triệu tấn gạo. Nếu so với năm 1989, lượng gạo xuất khẩu năm 2004 tăng gấp 2,86 lần, giá gạo tăng 28 USD/tấn (204 - 232 USD) và kim ngạch xuất khẩu tăng gấp 3,25 lần (941/289 triệu USD).
Năm 1989, kim ngạch xuất khẩu nông lâm, thuỷ sản đạt trên 1990. Sản lượng gạo xuất khẩu năm 1999 đạt mức kỷ lục 4,6 triệu tấn (tăng 2,8 lần), cao hơn 263 ngàn tấn (tăng 3,5 lần), xuất khẩu thuỷ, hải sản đạt trên 1 tỷ USD, gấp 5 lần năm 1990. Cùng với tăng trưởng sản lượng và sản lượng hàng hoá, trong nông nghiệp đã và đang diễn ra quá trình đa dạng hoá sản xuất, đa dạng hoá các mặt hàng nông sản trên cơ sở khai thác các tiềm năng, lợi thế so sánh của từng vùng, từng địa phương và của hộ nông dân, dưới tác động của thị trường. Đặc biệt đã hình thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung với khối lượng nông sản hàng hoá lớn, mang tính kinh doanh chuyên môn hoá rõ rệt.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn kể trên, còn không ít thách thức đối với sự phát triển bền vững nền nông nghiệp và nông thôn nước ta. Đó là:
- Nhìn chung kinh tế cả nước, công nghiệp vẫn chưa gắn với nông nghiệp thành một cơ cấu hiệu quả và phát triển bền vững.
- Nền nông nghiệp bước vào giaiđoạn đẩ mạnh CNH, HĐH với điểm xuất phát thấp: dấu ấn độc canh, manh mún còn mang nặng ở nhiều vùng; lao động nông thôn dư thừa còn lớn, cơ cấu dân số thành thị, nông thôn vẫn chưa chuyển dịch được bao nhiều; nguồn lực của kinh tế hộ ở nông thôn còn thấp kém.
- Trình độ khoa học công nghệ ứng dụng vào sản xuất nông nghiệp và các hoạt động sản xuất kinh doanh ở nông thôn quá thấp.
- Chiến lược thị trường đối với hàng hoá nông sản chưa được quan tâm đúng mức, làm cho người nông dân sản xuất hàng hoá thường xuyên là người chịu thiệt thòi nhất.
- Mức sống thu nhập của nông dân còn thấp và có chiều hướng ngày càng doãng ra so với cư dân thành thị. Thu nhập cư dân nông thôn chỉ bằng 1/5 cư dân thành thị, 90% số hộ cần xoá đói giảm nghèo năm ở nông thôn.
Xét trên tổng thể, nền nông nghiệp nước ta vẫn trong tình trạng của sản xuất hàng hoá nhỏ, ruộng đất ở nông thôn bị chia nhỏ, manh mún, không phù hợp với yêu cầu của việc sản xuất hàng hoá lớn, tập trung. Kết quả điều tra cho thấy, quy mô bình quân một số hộ ở đồng bằng sông Cửu Long chỉ đạt 1,4 - 1,5 ha, nhưng ở nhiều địa phương số hộ có từ 1 ha trở xuống chiếm tới 70%. Quy mô ruộng đất ở đồng bằng sông Hồng và các tỉnh miền Trung là 0,25 - 0,3 ha (số hộ có quy mô từ 0,5 - 1 ha chỉ có 2% số hộ nông dân trong vùng). Cơ cấu sản xuất và phân công lao động trong nông nghiệp có những chuyển biến tích cực nhưng còn chậm và về cơ bản chưa khắc phục được những hạn chế của cơ cấu nông nghiệp truyền thống, chưa tạo ra động lực mạnh thúc đẩy sản xuất kinh doanh hàng hoá. Tỷ trọng nông nghiệp trong giá trị sản xuất nông, lama ngiệp và thuỷ sản có xu hướng gảm nhưng vẫn chiếm trên 80%. Trong đó cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp, chiếm tỷ trọng trồng trọt vẫn chiếm 75 - 78%, tỷ trọng chăn nuôi trong nhiều năm chỉ chiếm 22 - 25%. Sản lượng lương thực vẫn chiếm tới 7-% thu nhập của dân cư nông thôn. Đáng chú ý là do áp dụng giống mới nên năng suất bình quân của cả nước đạt trên 40tạ/ha, tăng gấp 1,6 lần so với năm 1985, nhiều nơi ở đồng bằng sông Hồng đạt 60 - 70 tạ/ ha, tăng gấp đôi; một số loại cây trồng đạt năng suất tương đương hoặc cao hơn so với các nước trong khu vực. Song phát triển nông nghiệp vẫn cơ bản theo chiều rộng, năng suất và hiệu quả sản xuất thấp. Sản phẩm hàng hoá tuy đa dạng, phong phú nhưng manh mún, có tính thời vụ và chưa tương thích với nhu cầu thị trường. Chất lượng nhiều mặt hàng nông sản (kể cả nông sản xuất khẩu ) còn thua kém so với nhiều nước trong khu vực, giá thành sản xuất còn ở mức khá cao và thiếu sức cạnh tranh. Chẳng hạn, giá thành mía nguyên liệu cho 1 tấn đường của ta hiện cao hơn 40% so với ấn Độ, 48,8% so với Thái Lan và gấp 1,6 lần so với mía nguyên liệu ở Australia.
Năng suất và hiệu quả sản xuất thấp của nông nghiệp còn do tình trạng giảm sút đa dạng gen ở giống cây trồng và vật nuôi. Nguyên nhân xuất phát từ trào lưu thay thế giống truyền thống bằng giống mới đang làm cho việc phòng chống sâu bệnh khó khăn hơn. Việc sử dụng phân hoá học, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ và các chất kích thích sinh trưởng một cách tuỳ tiện, đã có dấu hiệu vượt quá giới hạn cho phép của môi trường sinh thái, dẫn đến thoái hoá đất, ô nhiễm nguồn nước và gây hại cho sức khoẻ con người.
Tình trạng bóc lột tài nguyên đất đai và trong lòng đất, rừng, thực vật ở các vùng nông thôn cũng đang làm lãng phí nhiều nguồn tài nguyên quý không thể tái tạo được.
Công nghiệp nhỏ, tiểu thủ công nghiệp và làng nghề phát triển mạnh ở nhiều vùng nông thôn, thu hút khoảng 2 triệu lao động đã tạo thêm công ăn việc làm và làm tăng thu nhập của dân cư. Song công nghệ sản xuất còn lạc hậu, sức cạnh tranh kém, thiếu thị trường tiêu thụ sản phẩm là những nguyên nhân cản trở sự phát triển ổn định của khu vực này. Bên cạnh việc có những mặt tác động tích cực, tuy nhiên do phát triển thiếu quy hoạch và thiếu đầu tư thoả đáng cho bảo vệ tài nguyên và môi trường, khu vực sản xuất nhỏ này đang gây ô nhiễm môi trường sinh sống của các cộng đồng nông thôn, đặc biệt ở một số làng nghề, nơi sản xuất và sinh hoạt đan xen trong cùng một khu dân cư đông đúc.
Xuất phát từ mục tiêu và nhiệm vụ chiến lược phát triển nền kinh tế - xã hội nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và vị trí vai trò của nông nghiệp trong tiến trình này; đồng thời xuất phát từ thực tiễn và đặc điểm của nền kinh tế thị trường trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường hiện đại, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Phát triển bền vững nền nông nghiệp nước ta trong giai đoạn thúc đẩy mạnh CNH, HĐH dựa trên quan điểm và định hướng sau:
- Phát triển mạnh sản xuất kinh doanh nông nghiệp hàng hoá theo chiều sâu, ưu tiên phát triển nông nghiệp sạch, công nghệ cao và đặc sản nhiệt đới; đẩy mạnh CNH, HĐH và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, kết hợp chặt chẽ với công nghiệp trước hết là công nghiệp chế biến, khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng, nguồn lực và lợi thế so sánh của từng vùng, từng địa phương và đất nước. Phát triển nông nghiệp bền vững gắn với bảo vệ, tái tạo và phát triển tài nguyên, môi trường sinh thái.
- Đảm bảo vững chắc vấn đề an ninh lương thực, đáp ứng mọi nhu cầu ngày càng cao về lương thực, thực phẩm, hàng hoá nông sản phục vụ nhu cầu trong nước và nhất là nhu cầu xuất khẩu.
- Gắn tăng trưởng và phát triển nông nghiệp với phát triển tổng thể kinh tế - xã hội nông thôn và kinh tế - xã hội đất nước theo hướng CNH - HĐH, xây dựng nông thôn mới giàu đẹp, hiện đại, văn minh.
- Dự báo đến năm 2015, dân số nước ta lúc đó (mặc dù thực hiện kế hoạch hoá dân số) đạt khoảng 95 - 100 triệu người, sức mua xã hội tăng khoảng 50 - 60%. Cơ cấu và trình độ tiêu dùng hàng nông sản cũng có những thay đổi và tăng lên đáng kể, nhất là chất lượng và chủng loại của sản phẩm hàng hoá nông sản. Nhu cầu xuất khẩu hàng hoá nông, lâm, thuỷ sản, theo dự báo cũng tăng lên 2,5 - 3 lần so với hiện nay và trở thành một trong những động lực chính thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững. Do đó, trong giai đoạn tới cũng như trong suốt quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH, sản xuất kinh doanh nông nghiệp hàng hoá theo chiều sâu, nâng cao chất lượng và trình độ phát triển của tất cả các ngành và lĩnh vực sản xuất trong nông nghiệp là yêu cầu bức thiết. Đó cũng là cơ sở và điều kiện đảm bảo cho phát triển bền vững nền nông nghiệp của nước ta trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Để thực hiện quan điểm, định hướng và mục tiêu phát triển nêu trên, nền nông nghiệp Việt Nam cần thực hiện các giải pháp chủ yếu sau đây.
1. Đẩy mạnh công tác quy hoạch, tổ chức và quản lý sản xuất.
Trên cơ sở tiếp tục rà soát và điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và mỗi địa phương, vùng lãnh thổ, cần đẩy mạnh công tác điều tra, quy hoạch và định hướng phát triển tổng thể nông, lâm, ngư nghiệp theo từng vùng, tiểu vùng kinh tế - sinh thái và theo nhóm sản phẩm hàng hoá. Ưu tiên quy hoạch và định hướng phát triển tổng thể theo chiều sâu (kể cả trung hạn và dài hạn) cho các vùng nông nghiệp trọng điểm, có điều kiện sản xuất hàng hoá tập trung quy mô lớn và các loại cây trồng, vật nuôi tạo ra sản phẩm hàng hoá chủ lực có giá trị kinh tế cao, có lợi thế xuất khẩu và phù hợp với điều kiện cụ thể của từng vùng, từng địa phương. Việc quy hoạch và định hướng phát triển tổng thể phải dựa trên cơ sở phân tích, dự báo và đánh giá thực trạng các điều kiện sản xuất và nhu cầu thị trường gắn với việc quy hoạch phát triển công nghiệp chế biến, kết cấu hạ tầng, phát triển nguồn lực và các thể chế luật pháp và bảo vệ tài nguyên, môi trường sinh thái. Nội dung quy hoạch tổng thể nông nghiệp, lầm nghiệp, thuỷ sản phải được lồng ghép các mục tiêu phát triển bền vững vào kế hoạch dài hạn cũng như ngắn hạn. Việc định hướng và quy hoạch phát triển tổng thể của mỗi vùng, mỗi địa phương cần có sự tham gia và sự hưởng ứng của nông dân, của các tổ chức sản xuất kinh doanh và phải có tính khả thi cao. Trên cơ sở quy hoạch và định hướng phát triển tổng thể, Nhà nước có thể bố trí đầu tư và điều chỉnh cơ cấu đầu tư cho đúng hướng, có hiệu quả đồng thời quản lý được quá trình khai thác, sử dụng đất đai, các nguồn tài nguyên và môi trường sinh thái trong nông, lâm, nghư nghiệp theo đúng quy hoạch và pháp luật.
2. Tăng cường đầu tư và điều chỉnh cơ cấu đầu tư thích ứng với thực tiễn phát triển của nền nông nghiệp trong từng thời kỳ.
Trong thời gian qua, đầu tư ngân sách và đầu tư xã hội hàng năm cho phát triển nông nghiệp, nông thôn đã tăng lên đáng kể, chiếm khoảng hơn 20% đầu tư ngân sách, và khoảng 11 - 12 % tổng đầu tư xã hội, nhưng vẫn chưa tương xứng với vị trí, tầm quan trọng và sự đóng góp của nông nghiệp đối với nền kinh tế (24% GDP, gần 30% giá trị của cả nước). Vì vậy, Nhà nước cần tăng cường đầu tư cho nông nghiệp, trên các phương diện như nghiên cứu khoa học, ứng dụng và chuyển giao công nghệ kỹ thuật mới (giống cây trồng, vật nuôi, kỹ thuật thâm canh tăng năng suất…) tăng cường đầu tư cho công nghiệp chế biến để nâng cao chất lượng, giá trị hàng hoá nông, lâm, thuỷ sản đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và nhất là xuất khẩu. Ngoài ra, ở những vùng còn nhiều khókhăn đối với sản xuất, có thể tăng cường đầu tư cho công tác thuỷ lợi, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các công trình phòng chống thiệt hại do thiên tai, bảo vệ và tái tạo tài nguyên thiên nhiên môi trường, thiệt hại sau thu hoạch. Trong điều kiện hiện nay, để có thể nới rộng hạn mức cho vay không phải thế chấp. Nó sẽ có tác dụng lớn đối với việc phát triển nông nghiệp theo hướng kinh doanh nông, lâm, ngư trại hàng hoá, khuyến khích khai thác thuỷ hải sản xa bờ, trông cây ăn trái, cây công nghiệp dài ngày quy mô lớn của các hộ nông dân.
Việc tăng tỷ lệ đầu tư ngân sách của Nhà nước hàng năm cho nông nghiệp, nông thôn là rất cần thiết nhằm tạo thêm điều kiện phát triển kinh tế nông thôn, góp phần xoá đói giảm nghèo, khắc phục tình trạng đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của nông thôn có xu hướng doãng dần ra so với thành thị.
3. Thúc đẩy và hỗ trợ phát triển các hình thức kinh tế hợp tác, liên doanh liên kết trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp.
Hiện nay đã xuất hiện một số hình thức hợp tác, liên doanh, liên kết nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, các doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí trung tâm của tổ chức liên doanh, liên kết trong sản xuất kinh doanh. Cần tổng kết các mô hình đã có, rút ra những bài học kinh nghiệm để nhân rộng những điển hình có ưu thế tại các vùng sản xuất nông sản hàng hoá phát triển như: lúa, cao su, mía, chè, cà phê, cây ăn quả, chăn nuôi đại gia súc các vùng đánh bắt và nuôi trồng thuỷ hải sản. Thực tế những tổ chức kinh tế này đã đóng vai trò động lực then chốt trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân công lao động và dân cư, thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và phát triển bền vững nền nông nghiệp hàng hoá nước ta trong thời gian qua.
Để phát triển các loại hình kinh tế hợp tác và nhân rộng các điển hình trong thực tiễn, vấn đề quan trọng là làm thế nào để nông dân và những người kinh doanh sản xuất nông nghiệp hiểu rõ bản chất Lụât hợp tác xã, nhận thức đầy đủ vai trò và sự cần thiết của các hình thức hợp tác, liên kết liên doanh sản xuất và lợi íchkhi tham gia tổ chức này. Do đó quá trình phát triển các tổ chức kinh tế hợp tác phải tiến hành từng bước phù hợp với trình độ phát triển của sản xuất kinh doanh hàng hoá và nhu cầu thực tế đòi hỏi. Trước mắt cần khuyến khích và hỗ trợ phát triển các loại hình kinh tế hợp tác đa phương, đa dạng ở những vùng sản xuất hàng hoá phát triển, nhất là các loại hình hợp tác cung ứng dịch vụ đầu vào, dịch vụ kỹ thuật chuyển giao công nghệ, hợp tác chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp… Về lâu dài có thể thúc đẩy phát triển và mở rộng hoạt động các tổ chức liên hợp tác xã, hiệp hội ngành nghề và hiệp hội sản phẩm. Các tổ chức này vừa tham gia tư vấn cho quá trình hoạch định chính sách, quy hoạch và định hướng phát triển nông nghiệp, nông thôn; đồng thời có vai trò quan trọng trong việc phổ biến, triển khai thực hiện cơ chế, chính sách khuyến nông, hỗ trợ phát triển và bảo vệ lợi ích của người sản xuất kinh doanh nông nghiệp trước những tác động rủi ro của thị trường của thiên tai.
4. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, ứng dụng và chuyển giao công nghệ kỹ thụât, phát triển hệ thống khuyến nông và các dịch vụ hỗ trợ sản xuất nông nghiệp.
Đây là giải pháp không kém phần quan trọng bảo đảm cho việc tăng năng suất và hiệu quả kinh doanh nông nghiệp. Cần xây dựng chiến lược phát triển khoa học - công nghệ trong nông nghiệp, mà trước mắt tập trung vào việc bảo toàn và phát huy hệ sinh thái và sự đa dạng sinh học của nước ta đang có nguy cơ bị suy giảm; đồng thời phải có giải pháp hữu hiệu để tạo ra các loài, giống mới thích hợp với từng vùng (chịu được sâu bệnh, hạn, úng, chua phèn, thân thiện với môi trường) cho năng suất và chất lượng sản phẩm sao. Chú trọng công nghệ sản xuất, chế biến và bảo quản sản phẩm; công nghệ quản lý chất lượng sản phẩm, quản lý và phòng trừ dịch hại tổng hợp trong nông nghiệp. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, cần đẩy mạnh khoa học dự báo, đặc biệt là nghiên cứu thị trường (vì thị trường là quyết định xuất khẩu) và nghiên cứu các chế định và luật pháp quốc tế. Việc nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ trong nông nghiệp cần gắn bó với thực tế, coi trọng kinh nghiệm sản xuất và sáng kiến kỹ thuật của nông dân, các nhà sản xuất kinh doanh nông nghiệp. Đồng thời phát triển hệ thống tổ chức khoa học và công nghệ của nhà nước từ trung ương đến địa phương (bao gồm cả các tổ chức tư vấn về kỹ thuật, quản lý và thị trường) phối hợp với các tổ chức kinh tế hợp tác và hỗ trợ phát triển ở nông thôn; tổ chức và mở rộng hệ thống khuyến nông khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư đến từng vùng, từng doanh nghiệp sản xuất và hộ nông dân. Cần trang bị đầy đủ và đồng bộ cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, phối hợp chặt chẽ trên cơ sở phân công, hợp tác giữa các tổ chức khoa học trong hệ thống nghiên cứu và đào tạo cán bộ khoa học, sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ (kể cả đội ngũ khuyến nông giỏi về chuyên môn, sâu sát với thực tế và thực sự tâm huyết với nghề nghiệp) nhằm phát huy hơn nữa những khả năng lao động sáng tạo, đóng góp tài năng và sức lực vì sự phát triển bền vững nền nông nghiệp hàng hoá Việt Nam trong giai đoạn đầy mạnh CNH, HĐH đất nước.
5. Tiếp tục đổi mới hoàn thiện thể chế và chính sách phát triển bền vững nền nông nghiệp hàng hoá nước ta trong điều kiện toàn cầu hoá và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Thiết lập và điều chỉnh chính sách tạo lập đồng bộ khuôn khổ pháp lý cho việc phát triển và mở rộng thị trường sử dụng và chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp; giao rừng và đất rừng cho hộ nông dân kinh doanh lâu dài và thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước; hình thành và phát triển thị trường tài chính, thị trường vốn và chuyển giao công nghệ, khuyến khích nghiên cứu khoa học, đẩy mạnh ứng dụng và chuyển giao công nghệ kỹ thuật, phát triển hệ thống khuyến nông (lâm, ngư) và các dịch vụ hỗ trợ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Phát triển tt hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ nông sản trong nước và thị trường xuất khẩu phục vụ nôngnghiệp, nông thôn, đổi mới và hoàn thiện các chính sách thuế, lãi suất ngân hàng, giá cả và tỷ suất hối đoái; cơ chế và thủ tục xuất nhầp khẩu hàng hoá nông sản, mậu dịch thuế quan và phí thuế quan. Đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát và quản lý chặt chẽ quá trình thực hiện các chính sách và quy định nói trên, xử lý nghiêm minh những sai phạm trong hoạt động thị trường. Mặt khác phải đẩy mạnh đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật và trang thiết bị phục vụ cho việc lưu thông trao đổi và xuất khẩu nông sản hàng hoá (các trạm trại máy móc phục vụ sản xuất, chế biến nông sản, kho tàng, bến bãi và phương tiện bốc dỡ, mạng lưới giao thông nông thôn, các chợ buôn bán nông sản, các cơ sở giao dịch.
Về lâu dài, cần xây dựng chiến lược thị trường, vì thị trường nông sản đang là yếu tố có tính quyết định khả năng tiêu thụ và do đó quyết định quy mô sản xuất hàng hoá nông sản ở trong nước. Nhưng Việt Nam là nước đi sau trong khi thị trường nông sản thế giới đã được phân chia tương đối ổn định. Trong bối cảnh đó, hàng hoá nông sản xuất khẩu của nước ta chịu thiệt thòi. Vì thế, một mặt cần có những giải pháp khai phá thị trường mới, mặt khác cần căn cứ vào tình hình dự báo thị trường để bố trí cơ cấu sản xuất cho phù hợp với lợi thế so sánh từng vùng. Đã đến lúc phải chấm dứt tình trạng xuất khẩu nông sản chỉ dựa vào tình hình dư thừa trong nước, hoặc do một cơ cấu đã có sẵn trong thời kỳ kinh tế bao cấp trước đây để lại. Có như vậy mới chủ động được hàng hoá trao đổi và xuất khẩu theo yêu cầu của thị trường và chấm dứt được tình trạng giá cả xuất khẩu bình quân có khi thấp hơn giá nông sản ở trong nước.
Để đảm bảo cho nông nghiệp phát triển bền vững, chúng ta cần xây dựng và thực hiện các chính sách ngăn cấm việc khai thác quá mức nguồn tài nguyên thiên nhiên như: đất, nước, không khí, đặc biệt là rừng và đất rừng. Cần tạo bước chuyển và đổi mới toàn diện tư duy, quan điểm phát triển và cơ chế chính sách đối với nghề rừng, đảm bảo khai thác hợp lý và phát huy thế mạnh, có thể làm giàu từ rừng và bằng nghề rừng, nhất là ở miền núi. Trên quan điểm phát triển rừng gắn với đất rừng và người làm nghề rừng, ngoài thành phần kinh tế nhà nước, cần nghiên cứu và ban hành chính sách giao quyền sử dụng rừng và đất rừng cho các thành phần kinh tế khác, đặc biệt là hộ gia đình kinh doanh lâu dài và làm tốt nghĩa vụ đối với nhà nước đối với một số loại rừng mà khả năng kinh doanh và quản lý của nhà nước chưa có điều kiện thực hiện, nhằm tạo ra “người chủ” thực sự đối với tất cả các loại rừng và đất rừng hiện nay”.
Tiếp tục hoàn thiiện hệ thống pháp luật về đất đai, tài nguyên nước, khoáng sản, môi trường và đưa các quy định pháp luật nói trên vào cuộc sống nhằm quản lý, sử dụng có hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, hạn chế, tiến tới ngăn chặn tối đa mức độ gia tăng ô nhiễm, suy thoái môi trường bảo vệ đa dạng sinh học. Bên cạnh đó cần coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục, kết hợp với đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm và trình độ khoa học và kỹ thuật của người dân đối với việc bảo vệ, khai thác cũng như phát triển tài nguyên môi trường; áp dụng các chính sách và giải pháp xoá đói giảm nghèo, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, ở miền núi, nhằm thúc đẩy hội nhập kinh tế, nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả các lĩnh vực sản xuất vật chất như nông nghiệp, sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên và môi trường phục vụ có hiệu quả cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Cần tiếp tục đổi mới toàn diện đất nước đi đối với hoàn thiện thể chế và chính sách phát triển bền vững nền kinh tế Việt Nam. Trong thời gian tới, Việt Nam sẽ phải phát triển kinh tế với tốc độ nhanh hơn, hiệu quả hơn, và bền vững hơn trên cơ sở chăm lo giải quyết totó hơn các vấn đề xã hội và văn hoá gắn tăng trưởng kinh tế với tiếp tục xoá đói, giảm nghèo và phát triển con người cũng như mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế. Việc hoàn thiện chính sách là rất cần thiết. Trong ngắn hạn có thể kiềm chế được sự gia tăng bất bình đẳng kinh tế ở Việt Nam. Những kinh nghiệm quốc tế cho thấy tăng tưởng nhanh không nhất thiết đi kèm với bất bình đẳng cao: chúng ta có thể đạt được cả hai. Nhiều nước đã duy trì được mức độ tăng trưởng kinh tế cao mà không phải chứng kiến sự bất bình đẳng ngày càng gia tăng nhưn đang diễn ra ở Trung Quốc. Có những can thiệp chính sách nâng cao được tính công bằng và đồng thời cũng hoàn toàn nhất quán với sự thúc đẩy phát triển trong nền kinh tế thị trường./.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền số 6 (tháng 11+12)/2005
Bài liên quan
- Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
- Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
- Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- Phát huy vai trò của ngành công nghiệp xuất bản trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 3 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Xây dựng mô hình tự quản trong phương pháp quản lý lưu học sinh nước ngoài tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Học viện Báo chí và Tuyên truyền là cơ sở đào tạo trong lĩnh vực báo chí, truyền thông và lý luận chính trị có uy tín trên cả nước. Bởi vậy, việc liên kết đào tạo về các lĩnh vực này không chỉ được thực hiện ở các đơn vị đào tạo trong nước mà còn được thực hiện cả ở sự liên kết đào tạo quốc tế. Hàng năm, Học viện đón tiếp một lượng lớn sinh viên quốc tế theo học ở các bậc cử nhân, cao học và nghiên cứu sinh. Do vậy, công tác quản lý sinh viên quốc tế là công tác quan trọng và có tính đặc thù. Công tác này để đạt hiệu quả tốt không chỉ thuộc về phương pháp và trách nhiệm của các đơn vị trong học viện mà còn phụ thuộc vào chính năng lực tự quản của các em. Tuy nhiên, để sự tự quản được thực hiện có chất lượng cần thực hiện trên nguyên tắc: Học viện định hướng – phòng Quản lý Ký túc xá xây dựng phương pháp và giám sát – lưu học sinh tự quản. Với nguyên tắc trên, phòng Quản lý ký túc xá đã thu được những thành công nhất định. Bài viết này trình bày những kinh nghiệm đã thu được trong qua trình xây dựng mô hình tự quản trong tập thể lưu học sinh nước ngoài tại học viện.
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Nhìn toàn bộ tiến trình lịch sử chính trị của dân tộc, “Hệ thống chính trị” nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thiết chế chính trị mạnh, mô hình này phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đúng với quy luật vận động của lịch sử. Và, cũng từ thực tế lịch sử, có thể thấy sức mạnh thực sự của Hệ thống chính trị mà chúng ta đang có chủ yếu không phải do tính chất nhất nguyên mà là do uy tín của Đảng, Nhà nước và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sức sống của hệ thống chính trị là sự phù hợp, thống nhất giữa mục đích của Đảng với nguyện vọng của nhân dân, với nhu cầu phát triển của đất nước. Hệ thống chính trị Việt Nam đương đại, trên cơ sở kết tinh các giá trị thiết chế truyền thống gắn với hiện đại không ngừng đổi mới phát triển khẳng định sức mạnh của Hệ thống tổ chức quyền lực Chính trị Việt Nam có vai trò quyết định thành công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Xây dựng tổ chức bộ máy hiệu lực, hiệu quả là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn kết, thống nhất, dũng cảm, sự hy sinh của từng cán bộ, đảng viên cùng với quyết tâm rất cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về xây dựng hệ thống chính trị với tiêu đề: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”:
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Với cộng đồng 54 dân tộc anh em, Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa đa dạng, phong phú, có những nét riêng, trở thành tài sản quý giá làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam độc đáo, đặc sắc. Giữ gìn và bảo vệ các giá trị di sản văn hóa truyền thống chính là góp phần củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc - một sức mạnh nội sinh to lớn và vĩ đại, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chạy đua vũ trang, các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraina ở Đông Âu, giữa Israel và Palestine vùng các tổ chức hồi giáo ở Trung Đông diễn biến ngày càng căng thẳng đe dọa tới hòa bình, an ninh khu vực và thế giới. Tuy vậy, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là mục tiêu hướng tới của các nước, là xu hướng chính trị -xã hội tất yếu của nhân loại, từ đó đặt ra vai trò, trách nhiệm của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Bình luận