Đồng chí Nguyễn Văn Linh - tấm gương học tập và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, những hoạt động và tư tưởng, cuộc đời phấn đấu hy sinh vì nước, vì dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là tấm gương, là kim chỉ nam cho đồng chí Nguyễn Văn Linh.
Những ảnh hưởng đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đối với Nguyễn Văn Linh trên bước đường hoạt động cách mạng là từ năm 1929, khi Anh mới 14 tuổi đang hoạt động trong tổ chức Học sinh đoàn tại Hải Phòng do Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội lãnh đạo. Anh có dịp được tiếp xúc với tác phẩm "Đường kách mệnh" của Nguyễn ái Quốc, điều đó đã làm cho Anh vững tin hơn với lý tưởng mình đã chọn, thêm hăng hái lao vào hoạt động cách mạng giải phóng đất nước khỏi ách xâm lược thực dân. Chính những lời dạy của Người về tư cách người kách mệnh đã giúp Nguyễn Văn Linh vượt qua thử thách trong hai lần bị kẻ thù đoạ đầy tại địa ngục Côn Đảo (1930 - 1936 và 1941 - 1945)
Lần đầu tiên đồng chí Nguyễn Văn Linh được gặp Bác Hồ là vào năm 1953 khi đồng chí ra Việt Bắc chữa bệnh và ở lại công tác tại Ban Tuyên huấn Trung ương. Hiệp định Giơnevơ ký kết, đồng chí phải trở lại Nam bộ. Trước khi lên đường, đồng chí được gặp Bác, được Bác ân cần hỏi chuyện và căn dặn phải cố gắng hơn trong công việc.
Năm 1963, sau 3 năm tiến hành phong trào Đồng Khởi ở miền Nam, đồng chí Nguyễn Văn Linh với cương vị Bí thư Trung ương Cục, được triệu tập ra Hà Nội để báo cáo với Trung ương và Bác Hồ về tình hình cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam. Vừa tới Hà Nội, đồng chí đã được Bác gọi vào ngay. Phong thái giản dị, ân cần của Bác làm đồng chí rất cảm động. Cảm động trước sự quan tâm của Bác thường xuyên nghĩ tới đồng bào và chiến sĩ miền Nam ruột thịt, Bác lo lắng từ miếng cơm, manh áo, vũ khí, thuốc men đến những gì đời thường nhất. Chính điều đó là nguồn cổ vũ, động viên đồng chí rất nhiều trong công tác. Đồng chí luôn ghi nhớ lời Bác dặn trước lúc trở về miền Nam: "Bất cứ trong tình huống nào cũng phải bám chắc lấy dân, dựa vào dân để mà tồn tại. Đó là cái chìa khoá của mọi thắng lợi"(1). Đồng chí rút ra bài học Đảng phải gắn bó với nhân dân, chú ý giáo dục, tổ chức, lãnh đạo nhân dân đấu tranh và chăm lo đời sống nhân dân, Đảng không được xa rời nhân dân. Sau này, trong khi lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, đồng chí Nguyễn Văn Linh vẫn thường nói: "Nguồn sức mạnh làm nên thắng lợi của chúng ta trong các thời kỳ cách mạng và kháng chiến trước đây chính là ở chỗ Đảng gắn bó máu thịt với dân, lãnh đạo và phát huy tiềm năng to lớn của dân, quan tâm giải quyết các lợi ích thiết thân của quần chúng"(2).
Năm 1968, đồng chí Nguyễn Văn Linh cùng đồng chí Lê Đức Anh ra Hà Nội để báo cáo với Trung ương Đảng và Bác Hồ về tình hình cách mạng miền Nam. Mặc dù sức khoẻ Bác đã yếu, nhưng Bác vẫn gọi đồng chí Nguyễn Văn Linh vào gặp mặt và được Bác mời ăn cơm. Đồng chí rất cảm động vì Bác yếu nhưng vẫn cố ăn hai bát cơm để đồng chí yên tâm là Bác còn khoẻ, còn có thể vào thăm miền Nam để đồng bào, chiến sĩ miền Nam yên tâm chiến đấu.
Năm 1969, đồng chí Nguyễn Văn Linh ra Hà Nội công tác, đồng chí đã vào thăm Bác và là người có mặt bên cạnh Bác khi Bác sắp qua đời. Bác nắm tay tất cả mọi người có mặt. Đồng chí Nguyễn Văn Linh hiểu rằng cái nắm tay, đây không phải là Bác nắm tay cá nhân đồng chí, mà qua đồng chí, Bác muốn tỏ rằng miền Nam luôn ở trong trái tim Bác. Cũng qua cái nắm tay đó, Bác muốn gửi gắm niềm tin vào nhân dân miền Nam nhất định thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Lúc Bác ra đi, tại Hà Nội, đồng chí Nguyễn Văn Linh được cử làm Trưởng đoàn đại biểu Đảng Nhân dân cách mạng miền Nam (tức bộ phận miền Nam của Đảng Lao động Việt Nam) tham gia các hoạt động tang lễ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với lòng tiếc thương vô hạn một lãnh tụ kính yêu của dân tộc, của cách mạng Việt Nam, của nhiều thế hệ cán bộ cách mạng Việt Nam. Đồng chí nguyện sẽ trung thành và suốt đời đi theo con đường mà Người đã chọn cho cách mạng Việt Nam - Tổ quốc độc lập, thống nhất tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cuối năm đó, đồng chí Nguyễn Văn Linh trở lại miền Nam công tác, biến đau thương thành hành động cách mạng, quyết tâm thực hiện ước nguyện của Bác Hồ là đất nước được độc lập, tự do, non sông thu về một mối, đồng chí Nguyễn Văn Linh và Thường vụ Trung ương cục miền Nam đã quyết định phát động phong trào thực hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu từ ngày 9.9.1969, với tinh thần quyết tâm của toàn Đảng bộ là "biến đau thương thành hành động cách mạng, động viên đợt thi đua đẩy mạnh mọi mặt công tác với khí thế mới, sức chiến đấu mới để thực hiện những điều chỉ dạy của Hồ Chủ tịch, theo lời kêu gọi của Trung ương Đảng, của Mặt trận dân tộc giải phóng và Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam"(3). Chỉ thị về việc mở cuộc phát động "học tập và làm theo Di chúc của Hồ Chủ tịch" nêu rõ: bản Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là "nguồn sức mạnh vô cùng to lớn đối với sự nghiệp đấu tranh cách mạng hiện nay và mãi mãi về sau của Đảng ta và dân tộc ta". Đợt phát động này nhằm tiếp tục bồi dưỡng và phát huy mạnh mẽ những tư tưởng, tình cảm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Nhận rõ công lao vĩ đại, đạo đức cao đẹp của Người, trên cơ sở đó, động viên tinh thần thi đua yêu nước, quyết tâm vượt qua mọi hy sinh gian khổ, kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, quyết tâm làm theo lời Bác: đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc tiến lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng Đảng vững mạnh, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, rèn luyện đạo đức, tác phong cách mạng.
Đồng chí Nguyễn Văn Linh là người rất coi trọng công tác giáo dục bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho cán bộ theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Khi đồng chí làm Bí thư thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh, đồng chí cho phép Ban tuyên huấn Thành uỷ tổ chức cuộc Hội thảo: Bác Hồ với miền Nam, miền Nam với Bác Hồ tổ chức vào ngày 2.6.1985. Tham gia cuộc hội thảo này, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã viết bài: "Bác Hồ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta", có nội dung về vấn đề giáo dục cán bộ theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Trong bài viết đồng chí Nguyễn Văn Linh đặc biệt nhấn mạnh trước hết phải chăm lo xây dựng Đảng, mà việc đầu tiên là phải giáo dục, đào tạo cán bộ đảng viên. Đồng chí đã quán triệt rõ quan điểm của Hồ Chí Minh, cán bộ là gốc của mọi công việc, phẩm chất cán bộ, đảng viên là yếu tố quyết định sự trong sạch, năng lực lãnh đạo của Đảng và cũng là yếu tố hàng đầu đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đất nước. Trong một số bài báo, bài nói khác đồng chí thường trích dẫn những câu nói của Bác Hồ để giáo dục cán bộ đảng viên: "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức không có căn bản, tự mình đã hủ hoá, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?(4)". Đồng chí luôn quán triệt lời dạy của Bác: "phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của dân"(5) và làm đầy tớ ví như: "mấy chữ a, b, c này không phải ai cũng thuộc đâu, phải học mãi, học suốt đời mới thuộc được"(6). Đồng chí rất đau lòng khi thấy không ít những cán bộ đảng viên tham nhũng gây phẫn nộ trong dư luận xã hội, có những người miệng kêu gọi tiết kiệm, liêm chính mà trong cuộc sống của cá nhân mình hay chung quanh mình để xảy ra lãng phí, ăn cắp của công, ức hiếp, trù dập người trung thực. Khơi cho cuộc đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, thực hiện dân chủ hoá trong đời sống xã hội, đồng chí Nguyễn Văn Linh là người khởi xướng chuyên mục Những việc cần làm ngay trên báo Nhân dân. Mục đích của đồng chí khi khởi xướng chuyên mục này là thông qua những bài báo góp phần đấu tranh nhằm làm lành mạnh đạo đức, lối sống và tác phong công tác của đội ngũ cán bộ Đảng và Nhà nước và làm lành mạnh các mối quan hệ xã hội. Đồng chí Nguyễn Văn Linh cho rằng phải đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng, coi trọng việc giáo dục đạo đức, lối sống; phải kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân; phải phê phán và xử lý nghiêm khắc những kẻ tham nhũng, suy thoái đạo đức và lập trường cách mạng, thiếu gương mẫu của bất kỳ cán bộ, đảng viên nào, kể cả đảng viên là cán bộ cao cấp.
Với chuyên mục Những việc cần làm ngay, đồng chí Nguyễn Văn Linh nêu cao việc đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực, thực hiện công bằng xã hội. Đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực không phải là vấn đề mới, nhất là trong thời điểm lịch sử lúc bấy giờ, tiêu cực gia tăng và ngày càng phổ biến. Đồng chí Nguyễn Văn Linh đã đặt ra vấn đề một cách gay gắt, làm cho cả xã hội phải suy nghĩ, băn khoăn. Đồng chí Nguyễn Văn Linh cho rằng lúc bấy giờ, chống tiêu cực là một việc làm cấp bách và quan trọng, nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VI và các nghị quyết của Đảng nhằm đưa đất nước ta ra khỏi hoàn cảnh khó khăn, đi tới ổn định tình hình về mọi mặt, làm cho đời sống của nhân dân từng bước được cải thiện, ngày càng được hạnh phúc như Di chúc Bác Hồ đã dặn: "làm cho xã hội đã tốt đẹp, càng tốt đẹp hơn, dân mới tin Đảng, Đảng mới càng hiểu dân, tin dân".
Trên cương vị là Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, suốt nhiệm kỳ Đại hội VI, và sau đó trên cương vị là Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng, đồng chí đã cùng tập thể lãnh đạo nhạy bén, chủ động, sáng tạo đưa đất nước vượt qua thời kỳ mà trong nước và trên thế giới đầy những biến động phức tạp. Đồng chí Nguyễn Văn Linh đã cùng tập thể Bộ Chính trị vững vàng trong công cuộc đổi mới, kiên trì đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa và đã thu được những thành tựu rất quan trọng, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng an ninh, cải thiện đời sống nhân dân, mở rộng quan hệ đối ngoại và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Đồng chí Nguyễn Văn Linh là một trong những cán bộ lãnh đạo Đảng đã có những đóng góp hết sức quan trọng trong việc rút kinh nghiệm những năm đầu đổi mới, tiếp tục phát triển đường lối của Đại hội VI để đề ra các quyết sách mới. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 12 chuẩn bị cho Đại hội lần thứ VII, đồng chí đã quán triệt với tư tưởng chỉ đạo là phải xác định rõ chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta và quyết định phải đưa vấn đề ra toàn Đảng thảo luận để đạt được sự thống nhất cao trong nhận thức. Đây là một quyết định cực kỳ quan trọng khẳng định quan điểm về sự bổ sung và phát triển lý luận về đường lối của Đảng ta. Đồng chí Nguyễn Văn Linh đã chỉ rõ: "Bác Hồ là nhà lý luận kiệt xuất trong việc vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào nước ta... khai thác,hệ thống hoá, nghiên cứu nội dung và vận dụng di sản tinh thần phong phú của Bác Hồ vào công cuộc đổi mới đất nước ta hiện nay là nhiệm vụ hàng đầu của những người làm công tác lý luận"(7).
Tại Đại hội Đảng lần thứ VII, với sự kiên định và tinh thần trách nhiệm cao. Đồng chí Nguyễn Văn Linh đã khẳng định: "... Đảng ta nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh - Điều đó là tự nhiên, bởi tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta và trong thực tế, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng và dân tộc..., là tiêu biểu sáng ngời cho sự kết hợp giai cấp và dân tộc, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng Hồ Chí Minh là vô cùng gần gũi, gắn liền với tình cảm yêu thương vô hạn của nhân dân đối với Bác, bởi công lao to lớn và đạo đức trong sáng của Người. Vì vậy, nói tư tưởng Hồ Chí Minh là phù hợp với thực tế cách mạng nước ta, phù hợp với tình cảm và nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân ta"(8).
Đảm nhận trách nhiệm là Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng, với tinh thần và tư tưởng trong sáng, thẳng thắn, trung thực, Đồng chí đã nói lên những lời tâm huyết: "Đảng vấn thì tôi phải cố"; "Tôi hoàn toàn tin tưởng ở Ban lãnh đạo mới của Đảng đủ sức gánh vác nhiệm vụ mà Đại hội VII giao phó. Còn tôi xin hứa với các đồng chí đại biểu rằng, dù không ở Trung ương nữa, nhưng với trách nhiệm là người đảng viên, tôi xin cố gắng cống hiến sự hiểu biết và kinh nghiệm nhỏ bé của mình cho cách mạng, cho Đảng đến hơi thở cuối cùng"(9). Đọc lại những lời tâm huyết của đồng chí Nguyễn Văn Linh, chúng ta nhớ lại lời Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời: "Bổn phận của tôi như người lính vâng mệnh quốc dân cầm súng ra trước mặt trận, không một chút ham muốn công danh phú quý, bao giờ đồng bào bảo lui, tôi rất vui lòng lui", "Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn đến tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành"(10).
Rõ ràng đạo đức, tâm nguyện của Hồ Chí Minh đã thấm sâu, in đậm ở người học trò xuất sắc của Người - đồng chí Nguyễn Văn Linh.
Trên cương vị Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng, đồng chí Nguyễn Văn Linh vẫn nhiều lần đi thăm các địa phương, các ngành để nắm tình hình, hiểu được đời sống của cán bộ và nhân dân. Đồng chí vẫn nghiên cứu lịch sử Đảng và có nhiều ý kiến chỉ đạo quý báu, thiết thực về việc biên soạn lịch sử Đảng và lịch sử cách mạng Việt Nam. Đồng chí cũng đã dành nhiều thời gian tiếp cán bộ nghiên cứu, cán bộ bảo tàng, kể lại cho họ nghe những lần đồng chí vinh dự gặp Bác Hồ và báo cáo với Bác về cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân miền Nam, về tình cảm của đồng chí, đồng bào đối với vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc.
Đồng chí Nguyễn Văn Linh mãi mãi là một tấm gương người chiến sĩ cộng sản giản dị, liêm khiết, trung thực, một nhà lãnh đạo kiên định và sáng tạo của Đảng, một tấm gương lớn về tinh thần học tập và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh./.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền số 5 (tháng 9+10)/2005
Bài liên quan
- Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
- Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
- Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- Phát huy vai trò của ngành công nghiệp xuất bản trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 3 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Một số giải pháp cải thiện hoạt động khai thác, xuất bản sách tinh gọn tại Việt Nam hiện nay
Sách tinh gọn, hay sách tóm tắt, là một sản phẩm tuy không mới nhưng do sự phát triển của các nền tảng số cũng như mạng xã hội mà đang trở thành xu hướng ở Việt Nam. Tuy nhiên, hoạt động này còn có nhiều vấn đề, như chưa tạo ra được lợi nhuận trực tiếp, dễ bị vi phạm bản quyền, các chế tài và quy định pháp luật tuy đã có nhưng chưa được cập nhật với tình hình thực tế, các đơn vị xuất bản vẫn còn e dè chưa phát triển mạnh. Do vậy, cần nâng cao vai trò của Cục Xuất bản, In và Phát hành - trung gian kết nối các yếu tố trong hoạt động khai thác sách tinh gọn cũng như những sản phẩm phái sinh. Đồng thời, các đơn vị xuất bản cũng cần đi đầu trong khai thác bản quyền, xây dựng hệ thống nhân sự chuyên nghiệp, giáo dục và tuyên truyền đến các tác giả nhằm phát triển hoạt động khai sách tinh gọn cho thị trường xuất bản Việt Nam.
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Nhìn toàn bộ tiến trình lịch sử chính trị của dân tộc, “Hệ thống chính trị” nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thiết chế chính trị mạnh, mô hình này phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đúng với quy luật vận động của lịch sử. Và, cũng từ thực tế lịch sử, có thể thấy sức mạnh thực sự của Hệ thống chính trị mà chúng ta đang có chủ yếu không phải do tính chất nhất nguyên mà là do uy tín của Đảng, Nhà nước và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sức sống của hệ thống chính trị là sự phù hợp, thống nhất giữa mục đích của Đảng với nguyện vọng của nhân dân, với nhu cầu phát triển của đất nước. Hệ thống chính trị Việt Nam đương đại, trên cơ sở kết tinh các giá trị thiết chế truyền thống gắn với hiện đại không ngừng đổi mới phát triển khẳng định sức mạnh của Hệ thống tổ chức quyền lực Chính trị Việt Nam có vai trò quyết định thành công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Xây dựng tổ chức bộ máy hiệu lực, hiệu quả là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn kết, thống nhất, dũng cảm, sự hy sinh của từng cán bộ, đảng viên cùng với quyết tâm rất cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về xây dựng hệ thống chính trị với tiêu đề: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”:
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Với cộng đồng 54 dân tộc anh em, Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa đa dạng, phong phú, có những nét riêng, trở thành tài sản quý giá làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam độc đáo, đặc sắc. Giữ gìn và bảo vệ các giá trị di sản văn hóa truyền thống chính là góp phần củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc - một sức mạnh nội sinh to lớn và vĩ đại, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chạy đua vũ trang, các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraina ở Đông Âu, giữa Israel và Palestine vùng các tổ chức hồi giáo ở Trung Đông diễn biến ngày càng căng thẳng đe dọa tới hòa bình, an ninh khu vực và thế giới. Tuy vậy, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là mục tiêu hướng tới của các nước, là xu hướng chính trị -xã hội tất yếu của nhân loại, từ đó đặt ra vai trò, trách nhiệm của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Bình luận