Giá trị gia đình châu Á - bí quyết phát triển thành công
Sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản từ những năm 60 thế kỷ trước, rồi của 4 con rồng châu á những năm tiếp theo (Hàn Quốc, Đài loan, Singapore va Hồng Kông) và gần đây là Trung quốc, các nước ASEAN trong đó có Việt Nam đã làm cả thế giới ngạc nhiên.
Điều gì đã làm nên sự kỳ diệu như vậy?
Nhiều công trình đã tìm tòi và nghiên cứu, cùng đi đến kết luận rằng giá trị gia đình là một trong những nhân tố quan trọng tạo nên sự thành công đó.
ở Âu Mỹ, khi sinh ra mỗi cá nhân chính là tế bào của xã hội, hành động xã hội của mỗi cá nhân đều do anh ta tự chịu trách nhiệm. Con người luôn được đặt vào vị trí trung tâm cùng với các lợi ích vật chất để khuyến khích anh ta. Ràng buộc giữa cá nhân và gia đình khá lỏng lẻo. Khi 18 tuổi các cá nhân thường tự chọn ngành nghề, chỗ làm việc và cả tương lai. Anh ta tự chịu trách nhiệm về công việc cũng như mọi hành vi của mình của mình, làm việc tốt hay không tốt thì cũng đơn lẻ một mình. Chính yếu tố cá nhân này đến một lúc nào đó đã làm mất đi nguồn hưng phấn tạo động lực. Của cải vật chất làm ra sự hưởng thụ cũng mất ý nghĩa vĩ thiếu sự chia xẻ.
Còn ở châu á thì khác, như ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam hay Trung Quốc, khi con người sinh ra đã được sắp xếp theo tôn ti trật tự trong gia đình và xã hội. Mỗi hành vi của cá nhân vừa đại diện cho cá nhân vừa đại diện cho danh dự gia đình, dòng họ. Trái lại, gia đình cũng chịu trách nhiệm đối với mỗi cá nhân, từ chuyện học hành, việc làm và nhiều quyết định quan trọng khác trong cuộc đời. Như vậy cá nhân đó lớn lên trong sự ràng buộc giữa các mối quan hệ gia đình và xã hội. Các yếu tố này nhiều khi là áp lực cho sự phấn đấu của anh ta, nhưng lại vừa là hậu thuẫn, sức động viên niềm an ủi.
Con người, khi được lớn lên trong sự đầm ấm tình cảm của gia đình, anh ta sẽ coi trọng mối quan hệ giữa con người với con người, cũng như giũa con người với xã hội hơn, và trách nhiệm với cộng đồng của cũng khác. Lấy một ví dụ, Nga kiều ở nước ngoài gửi tiền và đầu tư về nước không đáng kể mặc dù đa số là khoa học trí thức có mức sống khá cao. Còn Hoa kiều là lực lượng chủ yếu trong việc gửi tiền, rồi các dự án đầu tư về lục địa trong những năm bắt đầu mở cửa. Cụ thể như năm 1995, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Trung quốc là 40 tỷ USD thì có đến 40% là có nguồn gốc của các doanh nhân người Hoa ở Hồng Kông, còn nếu tính cả luồng vốn ở các nước khác thì có đến trên 70% trong tổng FDI là có nguồn từ người Hoa ở nước ngoài. Việt kiều với số lượng không nhiều nhưng hàng năm gửi xấp xỉ 3 tỷ USD về Việt Nam, và hiện đang đầu tư nhiều công trình trong nước.
Các giá trị gia đình được thể hiện rất rõ trong triết lý quản lý của người châu á. Nếu như ở Âu Mỹ, các nhà quản lý luôn coi trọng yếu tố vật chất, và lấy nó làm phần thưởng cũng như hình phạt để thúc đẩy khuyến khích người lao động, thì ở châu á khác hẳn.
Sau một loạt thành công, nhiều học giả phương Tây đã nghiên cứu mô hình và phương pháp quản lý độc đáo ở Nhật Bản và gọi đó là phong cách quản lý hay nghệ thuật quản lý Nhật Bản. Người đầu tiên đưa ra lý thuyết này là một học giả người Nhật William Ouchi, và còn gọi đó là lý thuyết Z.
Theo lý thuyết này, mô hình quản lý kinh doanh được xây dựng dựa trên việc xây dựng một nền văn hoá truyền thống cho môi trường bên trong của doanh nghiệp. Như vậy với mô hình này, các doanh nghiệp sẽ tuyển dụng công nhân làm việc suốt đời và sau đó là đời con cháu. Mỗi xí nghiệp là một gia đình lớn, một cộng đồng có liên hệ khăng khít với nhau, các hoạt động liên quan đến việc chăm lo đời sống của công nhân được chú trọng hơn, con cái thường được học hành tại các trường học do chính doanh nghiệp tổ chức, và sau này chúng đều có cơ hội làm việc tại chính nơi cha mẹ nó đã từng làm việc. Khi các công nhân mới được tuyển dụng, với tư cách là thành viên mới của gia đình, họ thường được dành một thời gian để tham quan, tìm hiểu về doanh nghiệp, về con người và những truyền thống tốt đẹp của doanh nghiệp đó. Như vậy họ cảm thấy như được sống và làm việc trong gia đình mình và giữa lãnh đạo và công nhân có sự gần gũi hơn, vì thế họ cũng có trách nhiệm hơn với doanh nghiệp, tập thể.
Sau Nhật Bản là Hàn Quốc, với các chaebol , đó chính là các tập đoàn gia đình lớn như Daewoo, Hyundai, Samsung,... Kiểu tổ chức và hoạt động các tập đoàn này cũng dựa trên kết cấu gia đình truyền thống của Hàn Quốc. Dưới sự hỗ trợ của chính phủ ngày nay các chaebol đã lớn mạnh không ngừng và làm nòng cốt cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế Hàn Quốc cũng như giúp Hàn Quốc ngày càng ảnh hưởng mạnh ra bên ngoài.
Còn ở Trung quốc, mạng lưới doanh nghiệp được tổ chức trên cơ sở gia đình của người Hoa đã lan toả khắp mọi nơi. Các mạng lưới này không những thành công ở Trung quốc mà còn thành công với hầu hết mọi nước, bất kỳ nơi nào có cộng đồng người Hoa sống.
Như vậy giá trị gia đình đã ảnh hưởng rất nhiều đến phong cách tổ chức và quản lý ở châu á, nó như chất men tạo lực cho sản xuất vật chất của mỗi doanh nghiệp cũng như toàn xã hội.
Thực ra các lý thuyết về việc kết hợp các yếu tố tâm lý, đặc biệt các giá trị truyền thống gia đình vào quản lý không phải là mới mẻ gì. Ngay từ đầu thế kỷ 20, Elton Mayo - giáo sư về tâm lý học của trường kinh doanh Harvard - đã nghiên cứu và giả thích về vấn đề này. Trong 5 năm (1927-1932), Mayo đã tiến hành nhiều cuộc nghiên cứu khác nhau và phát hiện ra rằng: ánh sáng không gây ảnh hưởng đến năng suất lao động của công nhân; các điều kiện làm việc cũng không có hoặc ít quan hệ với năng suất; tiền lương và tiền thưởng cũng không tạo ra tác động nào đáng kể trong năng suất lao động của tập thể. Trái lại, những yếu tố có can dự đến năng suất lại là những yếu tố phi vật chất, đó là yếu tố tâm lý của người lao động, môi trường gia đình và tập thể anh ta lớn lên, sinh sống và làm việc. Những khám phá này đưa đến nhận thức mới trong quản lý, nhưng nó chỉ thật sự được ứng dụng và thành công ở châu Á.
Nếu như các nước Âu Mỹ đang đứng trước sự tan rã của gia đình, thậm chí sự tồn tại gia đình không có ý nghĩa, và vấn đề gia đình đang báo động kêu cứu. Tỷ lệ thanh niên ở nhiều nước phát triển lựa chọn cuộc sống độc thân ngày càng tăng, ví dụ như ở Pháp con số này là trên 40%. Còn tỷ lệ ly dị của nhiều nước trong một số thời kỳ còn cao hơn cả tỷ lệ kết hôn. Số trẻ em sinh ngoài giá thú ở Mỹ hơn 20%. Nhiều học giả đã cùng đồng thanh là “thảm họa quốc gia”, vì đi kèm theo nó là sự phai nhạt của các giá trị của truyền thống, luân lý đạo đức, tôn ti trật tự trong xã hội, và điều này cũng ảnh hưởng rất nhiều đến các nền kinh tế.
Trong khi đó thì gia đình truyền thống phương Đông dù là trong làn sóng hiện đại hoá, hội nhập với nền sản xuất tiên tiến Âu Mỹ lại không bị chìm mất. Những đạo đức lý luận gia đình không không những không ngáng trở con đường hiện đại hoá mà ngược lại , về mặt nào đó đã trở thành chỗ dựa cho quá trình đó. Chính những giá trị gia đình truyền thống, luân lý đạo đức là những hàng rào cản cho chủ nghĩa tự do cá nhân với mục đích là cạnh tranh để kiếm nhiều lợi nhuận nhất trong nền kinh tế thị trường, nơi mà đồng tiền được coi là vạn năng.
Sau khi chứng kiến sự tan vỡ và mất đi của các giá trị gia đình, ngày nay rất nhiều nước Âu Mỹ đang rất ngưỡng mộ và thèm muốn có được gia đình kiểu châu á.
Với Việt Nam chúng ta thì sao? Chúng ta đang trong công cuộc phát triển và hội nhập, chúng ta học tập được rất nhiều từ những xã hội khác giàu có văn minh hơn, nhưng cũng đừng quên rằng đi kèm theo đó là nhiều vấn đề, trong đó có cả sự mất đi của các giá trị gia đình. Kinh nghiệm của các quốc gia đi trước đã cho chúng ta một bài học, hãy nắm vững truyền thống và các giá trị gia đình tươi đẹp trước khi học tập những điều khác./.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền số 2 (tháng 3+4).2005
Bài liên quan
- Thông điệp về “khát vọng hoà bình” trong tranh cổ động Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
- Chuyện tặng sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho Thư viện Karl Marx
- Tấm gương bình dị trong một nhân cách lớn
- Người chụp cả vạn bức ảnh đẹp về Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
- Các yếu tố tác động đến sự hình thành dư luận xã hội
Xem nhiều
- 1 Mạch Nguồn số 56: Dấu ấn về mùa thu lịch sử
- 2 Thông điệp về “khát vọng hoà bình” trong tranh cổ động Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
- 3 10 thành tựu nổi bật của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trong 10 năm (2014 – 2024)
- 4 Phản ứng của Trung Quốc đối với chính sách hành động hướng đông của Ấn Độ
- 5 Chuẩn cơ sở giáo dục đại học của Học viện Báo chí và Tuyên truyền: Đánh giá và giải pháp, kiến nghị
- 6 Quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới qua báo điện tử VietnamPlus
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Không thể xuyên tạc, phủ nhận thành tựu của Việt Nam trong việc bảo đảm và thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
Tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quan điểm xuyên suốt, nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Cá nhân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào; không ai có quyền xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quốc gia, dân tộc, lợi ích cộng đồng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Thế nhưng, thời gian qua, các báo cáo nhân quyền, tôn giáo của một số nước phương Tây thường xuyên có nội dung xuyên tạc, vu cáo “chính quyền Việt Nam giới hạn tự do tôn giáo”. Đây là sự bịa đặt, vu cáo trắng trợn hòng phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam. Vì vậy, việc làm rõ những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động về thành tựu của Việt Nam trong bảo đảm và thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Thông điệp về “khát vọng hoà bình” trong tranh cổ động Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
Thông điệp về “khát vọng hoà bình” trong tranh cổ động Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
Xuất hiện ở Việt Nam từ những năm 40 của thế kỷ 20, tranh cổ động gắn liền với lịch sử cách mạng Việt Nam và trở thành một phần quan trọng trong đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân Việt Nam. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, tranh cổ động trở thành thứ vũ khí tinh thần mạnh mẽ trong hành trình giành độc lập dân tộc. Tuy nhiên, tranh cổ động không chỉ mang trong mình sứ mệnh tuyên truyền vận động, cổ vũ, tinh thần chiến đấu, thúc giục mọi người tham gia chiến đấu, mà còn mang trong đó những giá trị thẩm mỹ và giá trị nghệ thuật cùng những thông điệp về khát vọng hoà bình. Bài viết này tập trung tìm hiểu về thông điệp “khát vọng hoà bình” trong tranh cổ động Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (từ năm 1954 - 1975).
Chuyện tặng sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho Thư viện Karl Marx
Chuyện tặng sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho Thư viện Karl Marx
Đầu năm 2022, Hội đồng Lý luận Trung ương phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật cho ra mắt công chúng cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Là cán bộ trường Đảng, chúng tôi may mắn sớm được nhận cuốn sách để làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị, báo chí - truyền thông. Đặc biệt, chúng tôi đã mang cuốn sách đó làm quà tặng Thư viện Karl Marx ở thủ đô London, Vương quốc Anh.
Tấm gương bình dị trong một nhân cách lớn
Tấm gương bình dị trong một nhân cách lớn
Khi Bộ Chính trị thông báo về tình hình sức khỏe của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Nhân dân cả nước và bè bạn quốc tế lo lắng, cầu mong sức khỏe của Tổng Bí thư sẽ hồi phục. Nhưng phép màu nhiệm đã không đến... 13 giờ 38 phút ngày 19 tháng 7 năm 2024, trái tim người con ưu tú của đất nước, Nhân dân Việt Nam đã ngừng đập…
Người chụp cả vạn bức ảnh đẹp về Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
Người chụp cả vạn bức ảnh đẹp về Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
Tôi biết nhà báo Lê Trí Dũng từ năm 1992. Khi đó, anh đang là sinh viên lớp đại học báo chí Khóa 10 (1992-1995), Khoa Báo chí, trường Đại học Tuyên giáo (nay là Học viện Báo chí và Tuyên truyền). Lúc này, các lớp đại học báo chí có hai đối tượng học chung, đó là cán bộ đang làm việc ở các cơ quan báo chí và học sinh mới tốt nghiệp trung học phổ thông.
Bình luận