Giảng viên lý luận chính trị các trường đại học với phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
Đại hội XIII của Đảng, trên cơ sở phân tích, đánh giá tổng quát kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XII và thực tiễn 35 năm đổi mới đã đề ra 6 nhiệm vụ trọng tâm. Trong đó, xác định nhiệm vụ số một là “tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị toàn diện, trong sạch, vững mạnh. Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm”, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Xây dựng đội ngũ đảng viên và cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Củng cố lòng tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”(1). Như vậy, tiếp tục chống những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ một lần nữa được nhấn mạnh.
1. Nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” được Đảng ta cảnh báo từ Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII và Đại hội XI, Đại hội XII của Đảng tiếp tục coi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là nguy cơ tồn tại.
“Tự diễn biến” là quá trình đấu tranh giữa mặt tích cực và mặt tiêu cực, giữa tư tưởng xã hội chủ nghĩa (XHCN) và tư bản chủ nghĩa (TBCN) trong nội tâm của người cán bộ, đảng viên trước những diễn biến phức tạp của đời sống. Trong đó, yếu tố tiêu cực và tư tưởng TBCN tăng dần, yếu tố tích cực, cách mạng, tư tưởng XHCN phai nhạt dần. Quá trình “tự diễn biến” diễn ra trước hết từ bên trong nội tâm, dần chuyển sang hành động của chủ thể, biểu hiện rõ trên phương diện tư tưởng, đạo đức, lối sống. “Tự chuyển hóa” là sự nối tiếp tất yếu của quá trình “tự diễn biến”, dẫn đến thay đổi về chất của quan điểm chính trị, đạo đức, lối sống, đánh mất vai trò tiên phong, gương mẫu. Cuối cùng, quá trình “tự chuyển hóa” làm cho người cán bộ, đảng viên có thể “trở cờ”, đứng về phía kẻ thù, ngược đường với sự tiến bộ và lợi ích của nhân dân, của xã hội.
Các mức độ của quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”:
Một là, quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” bắt đầu từ mất niềm tin, mất phương hướng. Chủ thể hoang mang, dao động về tư tưởng chính trị, hoài nghi về tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về sự lãnh đạo của Đảng.
Hai là, chủ động tiếp nhận thông tin trái chiều, lý luận phản động, tiếp nhận những biểu hiện và hành vi trái với lý tưởng, đạo đức, lối sống tốt đẹp.
Ba là, chủ thể hình thành tư tưởng phản động, chống đối, từ bỏ lý tưởng, mục tiêu cách mạng, vứt bỏ vũ khí tư tưởng, lý luận của Đảng, sẵn sàng “trở cờ”, phản bội, trở thành chủ thể tuyên truyền, phổ biến tư tưởng phản động.
Quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có thể biểu hiện ở nhiều phương diện:
Thứ nhất, về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” biểu hiện ở việc phai nhạt lý tưởng cộng sản, dao động, thiếu niềm tin, dẫn đến phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vai trò lãnh đạo của Đảng, xét lại con đường đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH)...
Thứ hai, về phương diện kinh tế - xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” dẫn đến sự phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, hạ thấp vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, muốn xóa bỏ công hữu...
Thứ ba, về văn hóa, đạo đức xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” dẫn đến sự từ bỏ các giá trị truyền thống, giá trị văn hóa, đạo đức XHCN, hình thành và tuyên truyền cho chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, thiếu trách nhiệm với xã hội... Biểu hiện rõ nhất là sự suy thoái phẩm chất, đạo đức, lối sống.
Thứ tư, về quốc phòng, an ninh, đối ngoại, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” biểu hiện là sự phủ nhận, xuyên tạc vai trò lịch sử của Đảng với chủ quyền quốc gia, xem nhẹ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, thông tin sai lệch về chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng...
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có thể diễn ra trong nội bộ Đảng, chính quyền Nhà nước và trong xã hội, nảy sinh ở cả cán bộ, đảng viên.
Sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” làm cho bản thân người cán bộ, đảng viên không còn giữ được bản chất cách mạng, lý tưởng và phẩm chất cách mạng. Tình trạng kéo dài và nghiêm trọng sẽ làm mất đi uy tín, danh dự của Đảng, mất đi niềm tin của nhân dân, dẫn đến tình trạng Đảng bị suy yếu, mất vai trò lãnh đạo và tan rã.
2. Giáo dục đại học là một bộ phận quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân với mục tiêu là “đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo, có sức khoẻ, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về giáo dục, đào tạo đã chỉ rõ: giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục đạo đức, lối sống, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một bộ phận quan trọng trong giáo dục đại học. Nhiệm vụ quan trọng này được triển khai trong toàn bộ các hoạt động của nhà trường. Trong đó, đội ngũ cán bộ giảng dạy lý luận chính trị đóng vai trò chủ lực.
Với chức năng dạy học, giảng viên lý luận chính trị là lực lượng chủ yếu, trực tiếp trang bị cho sinh viên những vấn đề cơ bản và toàn diện về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng; một số môn học còn cung cấp nội dung, biện pháp tiến hành công tác đảng, công tác tư tưởng chính trị... Trên cơ sở đó, xây dựng, bồi dưỡng cho người học thế giới quan, phương pháp luận khoa học, xây dựng niềm tin, lý tưởng, giáo dục đạo đức, lối sống và các phẩm chất cần thiết đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng. Điều này góp phần bồi dưỡng lớp sinh viên hôm nay và đội ngũ cán bộ tương lai trung thành với với lý tưởng cách mạng của Đảng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần hy sinh và sức sáng tạo to lớn, có trách nhiệm xã hội, hình thành lối sống tích cực, có phương pháp đấu tranh chống quan điểm xuyên tạc, phi khoa học và biểu hiện sai lệch về lối sống trong xã hội, góp phần vào công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Với tư cách nhà khoa học về tư tưởng, lý luận, giảng viên lý luận chính trị là lực lượng trực tiếp nghiên cứu khoa học nhằm bảo vệ, bổ sung, phát triển các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng; góp phần xây dựng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Giảng viên lý luận chính trị đóng vai trò là những “chiến sĩ” thường trực trên mặt trận tư tưởng, là lực lượng nòng cốt đấu tranh phản bác lại các quan điểm sai trái, phản động của các thế lực thù địch dựa trên những bằng chứng khoa học.
Với vai trò nghề nghiệp và vị trí xã hội của mình, giảng viên lý luận chính trị có ảnh hưởng sâu sắc và rộng rãi đến sinh viên, đến xã hội về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, về hành vi thực tiễn.
Do những ảnh hưởng của mình, giảng viên lý luận chính trị không chỉ yêu cầu có tri thức khoa học chuyên sâu, năng lực tư duy khoa học và kỹ năng nghề nghiệp mà còn đặt ra yêu cầu cao về bản lĩnh chính trị, phẩm chất nghề nghiệp và đạo đức lối sống, phải thực sự vững vàng về bản lĩnh chính trị, có tâm huyết với sự nghiệp chính trị, trung thành, tha thiết với lý tưởng cách mạng.
Trước những khó khăn to lớn của hệ thống XHCN trên thế giới cả về lý luận và thực tiễn thời gian qua, trong điều kiện của cơ chế thị trường và hội nhập, giao lưu quốc tế ngày càng sâu rộng, âm mưu chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, đội ngũ giảng viên lý luận chính trị đã thể hiện rõ bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức cách mạng.
Đa số giảng viên lý luận chính trị vững vàng niềm tin chính trị, kiên định lý tưởng, không ngừng học tập, rèn luyện, có trách nhiệm với nghề nghiệp, với xã hội; giữ gìn tư cách đạo đức, nhân cách và hình mẫu mô phạm của người thầy; nghiêm túc chấp hành quy chuẩn đạo đức nghề nghiệp.
Đội ngũ giảng viên lý luận chính trị đã góp phần quan trọng trong xây dựng thế giới quan khoa học, phương pháp luận duy vật biện chứng, củng cố bản lĩnh chính trị, đồng thời giúp người học có khả năng phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Cán bộ giảng dạy lý luận chính trị đã tiến hành nghiên cứu thành công nhiều đề tài khoa học, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đề xuất những phương hướng, biện pháp hữu hiệu, khoa học về công tác tư tưởng chính trị.
Trên các diễn đàn khoa học và đại chúng, giảng viên lý luận chính trị công bố nhiều tài liệu khoa học bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng. Giảng viên lý luận chính trị là “chiến sĩ xung kích”, sẵn sàng tham gia các diễn đàn, các trang thông tin trên Internet, các trang mạng xã hội, đấu tranh mạnh mẽ với các quan điểm sai trái, phản động của các thế lực thù địch, uốn nắn, định hướng những biểu hiện sai lệch về tư tưởng, lối sống.
Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế, bất cập như:
Một số giảng viên lý luận chính trị còn biểu hiện chưa tin tưởng thực sự vào lý tưởng, con đường cách mạng của dân tộc, thể hiện ở sự dao động về lý tưởng cộng sản, lung lay niềm tin chính trị, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng. Vẫn còn những giảng viên lý luận chính trị phát biểu trên bục giảng, trên diễn đàn xã hội những quan điểm đi ngược, đi trái với đường lối của Đảng. Khi phân tích các vấn đề chính trị - xã hội, một số giảng viên còn có cái nhìn thiếu tích cực, thiếu niềm tin.
Một số giảng viên lý luận chính trị chưa đáp ứng yêu cầu của công tác tư tưởng trong cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”; thiếu tu dưỡng, rèn luyện nên năng lực sư phạm, trình độ chuyên môn còn nhiều hạn chế.
Nghiên cứu khoa học và hướng dẫn sinh viên, học viên nghiên cứu khoa học về các vấn đề công tác tư tưởng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một số giảng viên còn nhiều mặt hạn chế. Một bộ phận giảng viên nhận thức chưa đầy đủ về nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, nhất là các đề tài về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống... Một số nghiên cứu chất lượng chưa cao, kết quả nghiên cứu chưa thực sự bám sát và giải quyết hiệu quả các vấn đề thực tiễn của công tác này.
Một bộ phận giảng viên lý luận chính trị chưa tích cực, chủ động tham gia chống quan điểm sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên các phương tiện truyền thông cũng như trên bục giảng. Vẫn còn giảng viên lý luận chính trị chưa thực sự mẫu mực cả trên bục giảng cũng như trong sinh hoạt, còn có biểu hiện tiêu cực.
Dù chưa phải là hiện tượng phổ biến, song những biểu hiện trên đây có thể tiềm ẩn và hiện hữu nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong mỗi cán bộ, đảng viên nói chung, trong cán bộ giảng dạy lý luận chính trị nói riêng. Đối với cán bộ giảng dạy lý luận chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” dẫn đến những hậu quả lớn, không chỉ ảnh hưởng đến tư tưởng chính trị của chủ thể chính trị mà còn tác động sâu rộng, nhiều mặt đến nhiều chủ thể của xã hội, nhất là khi họ đang tạo lập, xây dựng niềm tin chính trị, lối sống đạo đức cho cả thế hệ tương lai của dân tộc.
Những hạn chế trên do nhiều nguyên nhân: nhận thức về vai trò của công tác tư tưởng, về sự nguy hại của quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ còn hạn chế, chủ quan, mất cảnh giác, thiếu thông tin và tiếp nhận, xử lý thông tin thiếu tính khoa học, tính đảng trong giảng viên lý luận chính trị; năng lực tư duy khoa học, bản lĩnh chính trị trong một bộ phận giảng viên lý luận chính trị chưa đạt độ sâu cần thiết; công tác tư tưởng, xây dựng Đảng của các cấp ủy các cơ sở đào tạo chưa thực sự hiệu quả...
3. Để đẩy mạnh hoạt động của đội ngũ giảng viên lý luận chính trị, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, cần tập trung một số biện pháp sau:
Một là, nhận thức rõ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là nguy cơ gần, là hiện tượng khách quan của quá trình phát triển đất nước trong bối cảnh phức tạp của tình hình thế giới, trong quá trình phát triển đất nước và trước chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch tiến hành đang diễn ra muôn vẻ hiện nay. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có thể tồn tại ở mọi cán bộ, đảng viên: từ các đảng viên giữ cương vị lãnh đạo cho đến cán bộ, đảng viên trẻ... Nâng cao ý thức về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” do vậy là yêu cầu đối với tất cả các giảng viên, các cấp lãnh đạo nhà trường.
Các cơ sở đào tạo cần nhận thức rõ hơn vai trò của công tác tư tưởng, đề cao cảnh giác trước nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ giảng viên. Thể hiện sự quyết tâm trong đấu tranh chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” vì mục đích xây dựng Đảng, vì sự phát triển của đất nước.
Hai là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục tư tưởng chính trị, văn hóa, đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ giảng viên nói chung và giảng viên lý luận chính trị nói riêng thông qua các hoạt động công tác Đảng, phù hợp với đối tượng này.
Ba là, xuất phát từ vai trò của công tác giảng dạy các môn lý luận chính trị, đặc thù của lĩnh vực nghề nghiệp, các cơ sở đào tạo cần chú ý tuyển chọn những cán bộ giảng dạy có đủ tiêu chuẩn về chuyên môn khoa học. Đồng thời, chú ý đánh giá lập trường tư tưởng chính trị của người cán bộ giảng dạy. Nhận diện và kịp thời phòng, chống suy thoái về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ giảng viên lý luận chính trị là một vấn đề hết sức cấp bách hiện nay. Một mặt, phát huy tính tích cực chính trị, đồng thời cần có những biện pháp thường xuyên nắm bắt tình hình, đánh giá đúng nguyên nhân và kịp thời xử lý những biểu hiện xa rời lý tưởng cộng sản, lung lạc niềm tin, biểu hiện nói và làm khác với đường lối, chủ trương của Đảng, trong đội ngũ cán bộ giảng dạy lý luận chính trị.
Bốn là, nâng cao năng lực chuyên môn của đội ngũ giảng viên lý luận chính trị để họ vững vàng về chuyên môn, có đủ niềm tin khoa học vào lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và con đường cách mạng Việt Nam, hình thành nên bản lĩnh, tư tưởng vững chắc trước mọi sự chống phá của các thế lực thù địch, vững vàng niềm tin trong quá trình phổ biến kiến thức khoa học lý luận chính trị.
Cần tạo điều kiện, môi trường và đặt ra yêu cầu bồi dưỡng niềm tin, lý tưởng cộng sản và trách nhiệm nghề nghiệp của người giảng viên lý luận chính trị thông qua các hình thức khác nhau nhằm tăng “sức đề kháng” cho đội ngũ này trước âm mưu “diễn biến hòa bình”, chống phá tư tưởng của các thế lực thù địch.
Năm là, duy trì thường xuyên, đẩy mạnh hiệu quả học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, coi đây là hoạt động có ý nghĩa quan trọng, là một trong những giải pháp cơ bản phòng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Cần nghiên cứu để triển khai thực hiện một cách thiết thực, tránh hình thức.
Sáu là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật, sớm phát hiện và kịp thời ngăn chặn các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ giảng dạy lý luận chính trị. Nhận diện và có biện pháp đấu tranh phù hợp trước biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tăng cường kiểm tra, giám sát và đánh giá trên cơ sở khoa học, chất lượng, hiệu quả giảng dạy, nghiên cứu của đội ngũ này. Có biện pháp đánh giá thỏa đáng, có hình thức khen thưởng, kỷ luật phù hợp.
Bảy là, cần nhận thức sâu sắc việc phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ giảng viên lý luận chính trị là cuộc đấu tranh hết sức phức tạp, diễn ra ngay trong nội bộ cơ sở đào tạo, trong chính giảng viên lý luận chính trị, giữa “ta với ta”. Nhiệm vụ này không đơn giản, do vậy cần kết hợp nhiều hình thức: từ đấu tranh phê bình, tự phê bình cho đến các biện pháp mang tính tổ chức và không loại trừ những biện pháp pháp luật cần thiết.
_________________________________________________
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, T.II, Nxb. CTQG Sự thật, Hà Nội, tr.334.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị điện tử ngày 13.9.2021
Bài liên quan
- Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
- Uy tín giả- tác hại thật - Bài 3: Ngăn chặn, đẩy lùi uy tín giả
- Uy tín giả - tác hại thật - Bài 2: Nhận diện uy tín giả
- Uy tín giả - tác hại thật - Bài 1: Uy tín giả - “mảnh đất dụng võ” của kẻ thù
- Nhận diện và xử lý những vấn đề phức tạp, nhạy cảm trong sách tôn giáo
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 3 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Mấy vấn đề cơ chế tài chính đáp ứng phục vụ nhiệm vụ chiến lược của Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay
Học viện Báo chí và Tuyên truyền (Học viện) là đơn vị sự nghiệp công lập, có chức năng đào tạo đại học, sau đại học các ngành lý luận chính trị, báo chí, truyền thông, kinh tế, xây dựng Đảng, quản lý nhà nước, quản lý xã hội…, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ các cấp. Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, Học viện cần có cơ chế tài chính phù hợp nhằm huy động tối đa nguồn lực tài chính và phân phối, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, tạo động lực thúc đẩy hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Trong những năm qua, thực hiện cơ chế tài chính ở Học viện đã có những chuyển biến tích cực, các nguồn thu đảm bảo chi, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của Học viện. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu nguồn lực tài chính cho chiến lược phát triển giai đoạn mới của Học viện, công tác thực hiện cơ chế quản lý tài chính cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện.
Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
Bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội hiện nay đứng trước rất nhiều khó khăn, thách thức do các yếu tố chủ quan và khách quan mang lại. Lan toả các giá trị tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để tiếp tục đưa đất nước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa. Vấn đề của hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội hiện nay là làm sao thu hút được sự quan tâm của đại bộ phận nhân dân, để nhân dân tin tưởng và làm theo Đảng thông qua những nội dung gần gũi, sinh động, hấp dẫn và hiện đại. Hai yếu tố ảnh hưởng lớn nhất tới hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng chính là sự phát triển nhanh chóng của các phương tiện truyền thông, đặc biệt truyền thông xã hội và hiện tượng truyền thông hoá.
Uy tín giả- tác hại thật - Bài 3: Ngăn chặn, đẩy lùi uy tín giả
Uy tín giả- tác hại thật - Bài 3: Ngăn chặn, đẩy lùi uy tín giả
Uy tín giả là một biến thể nguy hại của chủ nghĩa cá nhân, trái ngược với những yêu cầu về phẩm chất đích thực và đạo đức cách mạng. Vì vậy, ngăn chặn, đẩy lùi uy tín giả là loại bỏ những thói hư tật xấu đang ngấm ngầm làm tha hóa cán bộ, đảng viên. Chống uy tín giả cũng là chống chủ nghĩa cá nhân, củng cố uy tín đích thực của người cán bộ, đảng viên, người lãnh đạo.
Uy tín giả - tác hại thật - Bài 2: Nhận diện uy tín giả
Uy tín giả - tác hại thật - Bài 2: Nhận diện uy tín giả
Uy tín giả nảy sinh, xâm nhập, lây lan trong đời sống chính trị, xã hội do nhiều nguyên nhân, trong đó, yếu tố chủ quan của tổ chức và cá nhân cán bộ, đảng viên là nguyên nhân trực tiếp, phổ biến.
Uy tín giả - tác hại thật - Bài 1: Uy tín giả - “mảnh đất dụng võ” của kẻ thù
Uy tín giả - tác hại thật - Bài 1: Uy tín giả - “mảnh đất dụng võ” của kẻ thù
Một trong những nguy cơ ngấm ngầm tạo ra sự ghen ghét, đố kỵ, gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ, làm suy yếu tổ chức, suy yếu tập thể là uy tín giả. Nghiêm trọng hơn, nó còn thúc đẩy sự trỗi dậy của chủ nghĩa cá nhân rất nguy hại. Suy rộng ra, uy tín giả hủy hoại nghiêm trọng thanh danh của Đảng, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước ta nếu không được nhận diện, đấu tranh, ngăn chặn.
Bình luận