Tư duy phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh mới
Đất nước sau 35 năm đổi mới: Những thách thức nội tại
Sau 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam đã có bước phát triển khá mạnh mẽ, đạt được nhiều thành tựu to lớn, khá toàn diện và có ý nghĩa lịch sử. Quy mô nền kinh tế hiện nay tăng lên hơn 40 lần so với năm 1990, trình độ nền kinh tế được tăng lên. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt cả về vật chất và tinh thần. Cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín của đất nước chưa bao giờ đạt được như ngày nay. Tuy nhiên, chúng ta còn phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức đến từ các yếu tố bên trong của nền kinh tế, như:
Một là, Việt Nam vẫn là nước thuộc nhóm các quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp, kém xa mức trung bình của thế giới. Năm 2019, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người của nước ta đã đạt mức 2.715 USD, nhưng khoảng cách so với các nước vẫn không có nhiều cải thiện; chỉ bằng 50% mức bình quân của nhóm quốc gia có mức trung bình, thấp hơn 4,4 lần so với mức trung bình của thế giới là 12.000 USD.
Hai là, yếu tố nền tảng cho tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững đã cơ bản được hình thành nhưng thiếu vững chắc, trong đó, tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra chậm, thiếu vắng các ngành công nghiệp cơ bản (như cơ khí, chế tạo, vật liệu…), công nghệ cốt lõi, công nghệ nguồn; vai trò của khu vực kinh tế nhà nước trong lĩnh vực này chưa được thể hiện rõ nét.
Ba là, các tiến trình lớn, quan trọng, như cơ cấu lại nền kinh tế, triển khai các đột phá chiến lược, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động, nâng cao tính tự chủ, khả năng thích ứng và chống chịu của nền kinh tế có nhiều chuyển biến nhưng còn chậm, chưa có được kết quả rõ nét.
Bốn là, những yếu tố truyền thống, không đem lại hiệu quả cao vẫn được khai thác phổ biến, như gia tăng vốn đầu tư, thâm dụng lao động, động lực tăng trưởng phụ thuộc nhiều vào khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Năm là, năng lực cạnh tranh về cơ bản vẫn ở mức trung bình trên thế giới, nhất là những tiêu chí quan trọng cho phát triền bền vững trong tương lai. Xuất khẩu, thương mại, đầu tư phụ thuộc nhiều vào các doanh nghiệp khu vực FDI chiếm 70% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước; FDI chiếm hơn 50% giá trị sản lượng công nghiệp. Công nghiệp hỗ trợ chưa phát triển, thiếu kết nối với khu vực FDI. Nguyên liệu, đầu vào trung gian phụ thuộc vào một vài thị trường.
Sáu là, công tác xây dựng và thực thi chính sách còn nhiều vấn đề (một số quy định của pháp luật chưa đồng bộ, nhất quán, còn chồng chéo; việc tổ chức thực hiện chính sách còn chậm, thiếu quyết liệt…).
Tư duy và tầm nhìn về phát triển
Để chủ động nắm bắt được cơ hội, tận dụng thế và lực của đất nước, bắt kịp và tiến cùng sự phát triển của thế giới, từ góc độ kinh tế, một trong những giải pháp lớn cần được tập trung là đổi mới tư duy và tầm nhìn phát triển, cụ thể như sau:
Thứ nhất, cần tư duy mới, cách tiệp cận mới theo hướng tích cực, đặc biệt là sau ảnh hưởng của đại dịch COVID-19. Đại dịch COVID-19 làm cho các cấu trúc kinh tế (sản xuất, thương mại, đầu tư…) và trật tự thế giới sẽ có sự điều chỉnh và thay đổi sâu sắc. Từ đó, Việt Nam với thành công trong kiểm soát dịch bệnh và môi trường ổn định sẽ có cơ hội bứt phá.
Thứ hai, các quyết sách phải đúng đắn và kịp thời, phải đẩy nhanh việc cải cách, cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực và toàn bộ nền kinh tế, đẩy mạnh đầu tư kết cấu hạ tầng, nâng cao sức cạnh tranh, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, chuyển đổi số, khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo… nhằm đủ sức tham gia ngay các trật tự mới. Không thể một lần nữa lại đứng ngoài hoặc đi sau, đi theo một cuộc chơi mới, sân chơi mới sắp diễn ra.
Thứ ba, tăng cường kết nối và chia sẻ là hai điều quan trọng để hội nhập, thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Chính vì vậy, các quyết sách đưa ra cần chính xác và kịp thời. Nhận thức người dân vừa là chủ thể vừa là mục tiêu để hướng tới. Theo đó, chính sách của Nhà nước phải xoay quanh hoặc hướng tới hạnh phúc của người dân.
Thứ tư, cần bảo đảm hài hòa mối quan hệ giữa ổn định và phát triển. Ổn định là tiền đề cho phát triển nhanh, đồng thời phát triển nhanh cũng là một điều kiện quan trọng để ổn định và duy trì ổn định, từ đó thúc đẩy đất nước phát triển nhanh và bền vững, xây dựng một nền kinh tế có tính tự chủ cao trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng.
Thứ năm, nguồn lực con người là thế mạnh cần phải được tận dụng để phát triển đất nước, nhất là trong giai đoạn "dân số vàng". Phân bố nguồn lực cần theo định hướng ưu tiên gắn với nâng cao hiệu quả sử dụng và cơ chế thị trường; tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với giải quyết các vấn đề xã hội, bảo đảm công bằng xã hội. Tạo mọi điều kiện, nhất là thể chế và nguồn lực, nhằm phát triển với tốc độ nhanh các vùng động lực, từ đó tạo ra sức lan tỏa thúc đẩy các vùng phát triển, hướng tới bảo đảm cân bằng trong dài hạn. Tăng trưởng nhanh phải dựa chủ yếu vào vùng động lực, các đô thị xanh, thông minh, đặc biệt là đô thị lớn. Tập trung xây dựng và hình thành trung tâm tài chính quốc tế tại Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Đà Nẵng để tranh thủ sự dịch chuyển của các dòng vốn trên thế giới, có khả năng cạnh tranh được với các trung tâm tài chính lớn của khu vực và thế giới.
Thứ sáu, cần phải có chủ trương nhất quán về tích lũy cho nền kinh tế, sử dụng nguồn vốn tiết kiệm và hiệu quả, giảm chi thường xuyên, tăng chi đầu tư hạ tầng lớn, hạ tầng thiết yếu để phát triển. Đối với một số địa phương có điều kiện tự nhiên đặc biệt khó khăn, không thuận lợi để thu hút đầu tư, phát triển kinh tế, cần xác định nhiệm vụ chính trị trọng tâm, hàng đầu, xuyên suốt là giữ đất, giữ rừng, giữ dân (bảo đảm quốc phòng - an ninh, bảo vệ chủ quyền biển, đảo, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững trật tự, an toàn xã hội; tạo sinh kế, việc làm, thu nhập và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần nhân dân) mà không quá đặt trọng tâm về mục tiêu phát triển kinh tế, tăng thu ngân sách bằng mọi cách.
Thứ bảy, thay đổi tư duy quản lý, quản trị quốc gia từ chủ yếu là kiểm soát, cho phép (tiền kiểm) sang chủ yếu phục vụ thúc đẩy phát triển (hậu kiểm). Từng bước hình thành khung pháp lý phù hợp nhằm khuyến khích sáng tạo, thúc đẩy phát triển.
Thứ tám, trong quản lý nợ công, cần xem xét hiệu quả sử dụng và khả năng trả nợ là thước đo quan trọng nhất, thay cho giới hạn bởi trần nợ công (nhiều quốc gia phát triển đang có tỷ lệ nợ công/GDP đang rất cao như Nhật Bản trên 200%, Mỹ trên 100%...). Tập trung thúc đẩy tăng trưởng để tăng quy mô GDP và theo đó tỷ lệ nợ công sẽ giảm, không nên chỉ tập trung giữ tỷ lệ nợ công mà không quan tâm đến đầu tư và phát triển để tăng quy mô nền kinh tế.
Thứ chín, phát triển nông nghiệp thông minh, hiệu quả, bền vững theo hướng nông nghiệp hiệu quả cao. Công nghệ cao chỉ là công cụ để thực hiện mục tiêu này, theo đó phải tối ưu hóa sản phẩm chứ không chỉ tối đa hóa sản lượng./.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 20.08.2021
Bài liên quan
- Phát huy vai trò của người có uy tín ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”
- Thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước mãi mãi gắn liền với cống hiến vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Thực hành tiết kiệm
- Một số vấn đề đặt ra trong việc phát hiện và sử dụng cán bộ có bản lĩnh, năng lực nổi trội vào vị trí lãnh đạo, quản lý các cấp
- Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đối với vấn đề bảo đảm an ninh quốc gia trên không gian mạng ở nước ta hiện nay
Xem nhiều
-
1
Thực hành tiết kiệm
-
2
Video Đại hội đại biểu Đảng bộ Học viện Báo chí và Tuyên truyền lần thứ XII, nhiệm kỳ 2025-2030
-
3
Ứng dụng AI trong sáng tạo tác phẩm báo mạng điện tử ở Việt Nam hiện nay
-
4
Sự dịch chuyển của thương hiệu Việt trong ngành thực phẩm và đồ uống (F&B) Việt Nam
-
5
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng và vận dụng trong nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên hiện nay
-
6
Tổ chức thành công đại hội các cấp của Đảng bộ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: đoàn kết, dân chủ, gương mẫu, trí tuệ, hiệu quả
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Giữ gìn cốt cách của báo chí cách mạng Việt Nam
Chất “cách mạng” chính là phẩm chất cốt lõi của báo chí cách mạng Việt Nam, để phân biệt với các nền báo chí khác. Tuy nhiên, hiện nay, với những tác động mặt trái của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, của quá trình hội nhập khiến độc giả nhận thấy có những cơ quan báo chí không thể hiện được phẩm chất cách mạng trong các tác phẩm báo chí của mình. Việc giữ gìn phẩm chất cách mạng là một yêu cầu tất yếu vì sự tồn tại và phát triển bền vững của báo chí cách mạng Việt Nam.
Phát huy vai trò của người có uy tín ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”
Phát huy vai trò của người có uy tín ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”
Việt Nam có 54 dân tộc anh em, trong đó có 53 dân tộc thiểu số với trên 14 triệu người, chiếm khoảng 14,7% dân số cả nước, sinh sống thành cộng đồng, cư trú xen kẽ, tập trung chủ yếu ở các khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên, duyên hải miền Trung và Tây Nam Bộ. Trong cộng đồng dân tộc thiểu số ở nước ta, người có uy tín có vai trò quan trọng trong triển khai đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, là nòng cốt trong phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, giữ vững chủ quyền, an ninh, trật tự vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi và khu vực biên giới.
Thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước mãi mãi gắn liền với cống hiến vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước mãi mãi gắn liền với cống hiến vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Khẳng định những cống hiến vĩ đại của Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam, Đại hội IV của Đảng đã viết: “Thắng lợi to lớn của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước cũng như những trang sử chói lọi của cách mạng Việt Nam ngót nửa thế kỷ qua mãi mãi gắn liền với tên tuổi Chủ tịch Hồ Chí Minh…”(1). Bài viết khẳng định những cống hiến vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước mãi mãi là biểu tượng bất diệt của tinh thần yêu nước và khát vọng độc lập, tự do và là nguồn cổ vũ to lớn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay.
Thực hành tiết kiệm
Thực hành tiết kiệm
Tiết kiệm và chống lãng phí là hai thành tố gắn bó hữu cơ với nhau, là hai trụ cột để đi tới thịnh vượng, giàu có đối với cả phạm vi gia đình, đất nước và xã hội. Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí là điều cần làm trong cuộc sống của từng cá nhân và toàn xã hội, là “hòn đá tảng” góp phần xây dựng một xã hội văn minh, phát triển bền vững. Đó phải là trách nhiệm chung và cần trở thành nếp sống, thành văn hóa hằng ngày của mỗi chúng ta.
Một số vấn đề đặt ra trong việc phát hiện và sử dụng cán bộ có bản lĩnh, năng lực nổi trội vào vị trí lãnh đạo, quản lý các cấp
Một số vấn đề đặt ra trong việc phát hiện và sử dụng cán bộ có bản lĩnh, năng lực nổi trội vào vị trí lãnh đạo, quản lý các cấp
Công tác phát hiện và sử dụng cán bộ có bản lĩnh, năng lực nổi trội vào vị trí lãnh đạo, quản lý các cấp có vai trò quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, đó là một trong những nội dung lớn về chính sách cán bộ của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Trong bài viết này, nhóm tác giả chỉ ra những vấn đề tồn tại, mâu thuẫn trong quá trình thực hiện và đưa ra một số kiến nghị đối với công tác phát hiện và sử dụng cán bộ có bản lĩnh, năng lực nổi trội vào vị trí lãnh đạo, quản lý các cấp.
Bình luận