Việc tăng nhiệm vụ, thẩm quyền thi hành kỷ luật trong Đảng cho Ủy ban kiểm tra của cấp ủy các cấp
1. Việc tăng nhiệm vụ cho ủy ban kiểm tra các cấp
Qua mỗi kỳ Đại hội, Đảng ta đều có sự sửa đổi, bổ sung nhiệm vụ của UBKT các cấp cho phù hợp với tình hình mới. Trước Đại hội II của Đảng (năm 1951), nhiệm vụ của các cơ quan kiểm tra tập trung vào tra xét những vấn đề vi phạm kỷ luật đảng. Điều lệ Đảng do Đại hội II của Đảng thông qua xác định nhiệm vụ của UBKT các cấp là: “xem xét tư cách và cách làm việc của cán bộ, đảng viên, chống quan liêu hủ hóa, lạm dụng chức vụ”. Điều lệ Đảng do Đại hội III thông qua quy định nhiệm vụ của UBKT các cấp là: “kiểm tra những vụ đảng viên làm trái Điều lệ, kỷ luật của Đảng, trái với đạo đức cách mạng và pháp luật Nhà nước”.
Đến Đại hội IV của Đảng, nhiệm vụ của UBKT các cấp được quy định: kiểm tra đảng viên (kể cả cấp ủy viên cùng cấp) vi phạm Điều lệ, kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Nhiệm vụ này đã được Đại hội V của Đảng bổ sung thêm: kiểm tra những vụ đảng viên (kể cả cấp ủy viên) vi phạm Điều lệ Đảng, nhằm vào những vụ vi phạm nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, vi phạm kỷ luật của Đảng và pháp luật Nhà nước, tư cách đảng viên... Đến Đại hội VI của Đảng, nhiệm vụ này được sửa đổi, bổ sung thành: kiểm tra đảng viên (kể cả cấp ủy viên cùng cấp) chấp hành Điều lệ Đảng, nhằm vào việc chấp hành nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, chấp hành kỷ luật của Đảng và pháp luật Nhà nước, tư cách đảng viên; kiểm tra việc thi hành kỷ luật của tổ chức đảng ở cấp dưới; kiểm tra tài chính của Đảng; giải quyết thư tố cáo đối với đảng viên về những vấn đề có quan hệ đến công việc nói trên và thư khiếu nại về thi hành kỷ luật trong Đảng v.v..
Đến Đại hội VII của Đảng, nhiệm vụ của UBKT các cấp lại được bổ sung thêm những nhiệm vụ mới: kiểm tra đảng viên (kể cả cấp ủy viên cùng cấp) và tổ chức đảng cấp dưới chấp hành nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng của đảng viên; xem xét, kết luận những trường hợp vi phạm kỷ luật và căn cứ thẩm quyền quy định tại điều 36 Điều lệ Đảng mà quyết định hoặc đề nghị cấp ủy quyết định thi hành kỷ luật; kiểm tra việc chấp hành quy chế làm việc của cấp ủy cấp dưới; kiểm tra việc thi hành kỷ luật của tổ chức đảng cấp dưới; kiểm tra tài chính của cấp ủy cấp dưới và của cơ quan tài chính của cấp ủy cùng cấp; giải quyết thư tố cáo về những nội dung quy định tại điểm 1, điều 33 Điều lệ Đảng đối với đảng viên và tổ chức đảng cấp dưới; giải quyết thư khiếu nại về việc thi hành kỷ luật trong Đảng theo thẩm quyền quy định tại điều 36 Điều lệ Đảng.
Tại Đại hội VIII và Đại hội IX của Đảng, nhiệm vụ của UBKT các cấp lại được sửa đổi, bổ sung thêm những nội dung mới: kiểm tra đảng viên, kể cả cấp ủy viên cùng cấp khi có dấu hiệu vi phạm tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp ủy viên và trong việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên; kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các nguyên tắc tổ chức của Đảng; kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra và thi hành kỷ luật trong Đảng; xem xét, kết luận những trường hợp vi phạm kỷ luật, quyết định hoặc đề nghị cấp ủy thi hành kỷ luật; giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên; giải quyết khiếu nại về kỷ luật đảng; kiểm tra tài chính của cấp ủy cấp dưới và của cơ quan tài chính cấp ủy cùng cấp.
Theo quy định của Điều lệ Đảng khóa VI, khóa VII, khóa VIII, khóa IX, các cấp ủy, tổ chức đảng, UBKT các cấp chủ yếu mới thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiểm tra, còn chức năng, nhiệm vụ giám sát trong Điều lệ Đảng chỉ quy định: “Đảng chịu sự giám sát của nhân dân”, chưa được quy định cụ thể để thực hiện. Đến Đại hội X của Đảng, điều 32 Điều lệ Đảng quy định UBKT các cấp có thêm nhiệm vụ: “Giám sát cấp ủy viên cùng cấp, cán bộ diện cấp ủy cùng cấp quản lý và tổ chức đảng cấp dưới về việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, nghị quyết của cấp ủy và đạo đức, lối sống theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương”(1). Từ Đại hội XI của Đảng đến nay, về cơ bản, các quy định về công tác kiểm tra, giám sát nói chung, nhiệm vụ của UBKT các cấp nói riêng vẫn được giữ nguyên theo quy định của Điều lệ được Đại hội XI của Đảng thông qua.
2. Việc tăng thẩm quyền thi hành kỷ luật cho ủy ban kiểm tra các cấp
Kỷ luật của Đảng có vai trò đặc biệt quan trọng và có tác dụng to lớn đối với hoạt động xây dựng nội bộ Đảng và hoạt động lãnh đạo của Đảng. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, kỷ luật đảng có vai trò, tác dụng to lớn trong việc xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, bảo đảm cho Đảng lãnh đạo các lĩnh vực của đời sống xã hội và lãnh đạo hệ thống chính trị, các tổ chức kinh tế, xã hội, nghề nghiệp một cách đúng đắn, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ cách mạng.
Thi hành kỷ luật đảng là một công việc rất khó khăn, phức tạp, đòi hỏi cấp ủy, UBKT các cấp có thẩm quyền phải xem xét một cách thận trọng, nghiêm túc, khách quan, bảo đảm đúng nguyên tắc, thủ tục và quy trình, không được làm tắt, chủ quan, định kiến dẫn đến bỏ qua các thủ tục cần thiết trong quá trình xem xét. Làm được như vậy mới có tác dụng giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật của Đảng, có tác dụng, giáo dục, răn đe đối với những tổ chức đảng, đảng viên có liên quan, hướng tới mục đích cao nhất của công tác thi hành kỷ luật trong Đảng là góp phần đấu tranh đẩy lùi các hiện tượng lệch lạc, tiêu cực trong Đảng và xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp cách mạng mới. Nếu quá trình thi hành kỷ luật đảng không được tiến hành nghiêm túc sẽ gây ra những hậu quả tai hại khó lường, làm ảnh hưởng đến uy tín của tổ chức đảng có thẩm quyền nói riêng và uy tín lãnh đạo của Đảng nói chung. Đây chính là yêu cầu mà việc tăng thẩm quyền thi hành kỷ luật cho UBKT các cấp cần phải quán triệt.
Thẩm quyền thi hành kỷ luật trong Đảng là quyền của các tổ chức đảng được quyết định thi hành kỷ luật đối với tổ chức đảng và đảng viên vi phạm theo quy định của Điều lệ Đảng, quy định và hướng dẫn của Trung ương Đảng. Căn cứ đối tượng vi phạm bị xử lý (có hay không có chức vụ, là cán bộ thuộc diện cấp ủy cấp nào quản lý...), mức độ vi phạm và hình thức kỷ luật sẽ phải áp dụng đối với tổ chức đảng hoặc đảng viên vi phạm để xác định thẩm quyền thi hành kỷ luật trong Đảng thuộc tổ chức đảng cấp nào.
Trong các nhiệm kỳ gần đây, thẩm quyền của UBKT các cấp trong việc thi hành kỷ luật đảng được tăng lên gắn với mở rộng phạm vi kiểm tra, giám sát nhằm ngăn chặn, phòng ngừa những vi phạm từ xa, từ đầu, từ sớm, ngay từ khi mới manh nha. Có thể nêu ra những nội dung về việc tăng thẩm quyền thi hành kỷ luật trong Đảng cho UBKT các cấp theo các quy định mới của Đảng và Quy định số 22-QĐ/TW ngày 28.7.2021 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII như sau:
Một là, cho phép UBKT từ cấp huyện và tương đương trở lên được quyền áp dụng hoặc đề xuất áp dụng các biện pháp ngăn chặn ngay từ khi tiến hành kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm và giải quyết tố cáo về tham nhũng
Trong Quy định số 01-QĐ/TW ngày 10.5.2018 của Bộ Chính trị về trách nhiệm và thẩm quyền của UBKT trong công tác phòng, chống tham nhũng, tại điều 5 về kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm và giải quyết tố cáo về tham nhũng, ghi rõ UBKT các cấp:
“5. Có quyền yêu cầu đảng viên không được xuất cảnh; khi cần thiết, đề nghị các cơ quan có thẩm quyền tạm hoãn xuất cảnh theo quy định của pháp luật đối với đảng viên có dấu hiệu tham nhũng và có biểu hiện bỏ trốn.
6. Yêu cầu đảng viên giữ nguyên hiện trạng tài sản; khi cần thiết, đề nghị cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản và các biện pháp khác theo quy định của pháp luật đối với đảng viên có dấu hiệu tham nhũng và có biểu hiện che giấu, tẩu tán tài sản.
7. Quá trình kiểm tra, được niêm phong tài liệu liên quan đến vi phạm; trường hợp cần thiết, yêu cầu đảng viên đến cơ quan Ủy ban kiểm tra giải trình làm rõ các vấn đề liên quan”(2).
Theo quy định trên, thì khi tiến hành kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm và giải quyết tố cáo về tham nhũng, UBKT có quyền yêu cầu hoặc đề xuất và áp dụng các biện pháp ngăn chặn một cách chủ động, kịp thời mà không cần theo quy trình thông thường nhằm ngăn ngừa trường hợp đối tượng đang trong giai đoạn kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm, chưa có các quyết định của cơ quan có thẩm quyền như khởi tố vụ án, khởi tố bị can sẽ bỏ trốn hoặc tẩu tán tài sản, gây khó khăn cho việc thu hồi tài sản bị thất thoát do hành vi tham nhũng gây ra.
Hai là, UBKT đảng ủy cơ sở được quyết định các hình thức kỷ luật khiển trách, cảnh cáo đối với đảng viên.
Theo Quy định số 30-QĐ/TW ngày 26.7.2016 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về thi hành Chương VII và Chương VIII Điều lệ Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng, “Ủy ban kiểm tra đảng ủy cơ sở không có thẩm quyền kỷ luật đảng viên nhưng có trách nhiệm xem xét, kết luận, đề xuất đảng ủy cơ sở và ủy ban kiểm tra cấp trên xem xét, quyết định”(3).
Hiện nay, theo Quy định số 22-QĐ/TW ngày 28.7.2021 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII, “Ủy ban kiểm tra đảng ủy cơ sở quyết định hình thức kỷ luật khiển trách, cảnh cáo đảng viên trong đảng bộ (kể cả cấp ủy viên chi bộ, cấp ủy viên đảng ủy bộ phận, cán bộ thuộc diện cấp ủy cùng cấp quản lý nhưng không phải là cấp ủy viên cùng cấp)”(4).
Ba là, cho phép UBKT các cấp được quyết định các hình thức kỷ luật khiển trách, cảnh cáo đối với tổ chức đảng.
Trước đây, theo Quy định số 30-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, UBKT các cấp từ cấp cơ sở đến UBKT Trung ương không có quyền thi hành kỷ luật tổ chức đảng: “Đảng ủy cơ sở, đảng ủy cấp trên cơ sở; cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy huyện, quận và tương đương trở lên có quyền kỷ luật tổ chức đảng theo quy định của Điều lệ Đảng. Ủy ban kiểm tra các cấp không có thẩm quyền kỷ luật tổ chức đảng nhưng có trách nhiệm xem xét, kết luận, đề xuất ý kiến với cấp ủy trong việc xử lý kỷ luật”(5).
Hiện nay, theo Quy định số 22-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII, “Ủy ban kiểm tra các cấp xem xét, kết luận, đề xuất với cấp ủy hoặc ban thường vụ cấp ủy trong việc xử lý kỷ luật tổ chức đảng cấp dưới trực tiếp; quyết định hình thức kỷ luật khiển trách, cảnh cáo tổ chức đảng trực thuộc cấp ủy cấp dưới”(6). Đây là quy định rất mới và có tính đột phá giúp việc thi hành kỷ luật trong Đảng tiến sát đến phương châm “kịp thời”, vì từ khi UBKT các cấp có trách nhiệm xem xét, kết luận, đề xuất ý kiến với cấp ủy trong việc xử lý kỷ luật đến khi ra quyết định thi hành kỷ luật đối với tổ chức đảng nhiều khi phải trải qua rất nhiều công đoạn, mất nhiều thời gian, nên nhiều khi quyết định kỷ luật được ban hành đã mất tính thời sự và răn đe.
Thực hiện quy định nêu trên, tại kỳ họp thứ năm của UBKT Trung ương khóa XIII, UBKT Trung ương đã quyết định: thi hành kỷ luật cảnh cáo Đảng ủy Cơ quan Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hà Nội nhiệm kỳ 2015-2020; thi hành kỷ luật cảnh cáo Đảng ủy Công ty IPC nhiệm kỳ 2015-2020, Chi bộ Công ty SADECO các nhiệm kỳ 2015-2017, 2017-2020; chi bộ Công ty Tân Thuận các nhiệm kỳ 2015-2017, 2017-2020 và Đảng ủy Cơ quan Văn phòng Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh nhiệm kỳ 2015-2020.
Bốn là, tăng thẩm quyền, tạo ra tính chủ động cho UBKT các cấp trong việc thi hành kỷ luật đảng viên vi phạm pháp luật.
Trong Quy định số 22-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII, tại điểm 4.6, Điều 8, ghi rõ:
“Trong quá trình kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án các vụ án, nếu phát hiện vi phạm liên quan đến đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp ủy cùng cấp quản lý thì chuyển thông tin, hồ sơ, tài liệu liên quan đến ủy ban kiểm tra cùng cấp để kiểm tra, xử lý theo đúng quy định của Đảng. Ủy ban kiểm tra kiểm tra xử lý kịp thời, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp ủy cùng cấp quản lý có dấu hiệu vi phạm trong các vụ việc, vụ án do các cơ quan chức năng thụ lý”(7).
Quy định mới này giúp UBKT các cấp có thể chủ động và kịp thời trong xử lý kỷ luật đảng viên khi có vi phạm pháp luật, khắc phục được tình trạng nhiều khi đảng viên đã bị xử lý hình sự, thậm chí đã bị giam giữ nhưng vẫn chưa bị xử lý kỷ luật về Đảng, vẫn còn giữ danh xưng là đảng viên.
3. Một số nhận xét
Tăng thẩm quyền thi hành kỷ luật trong Đảng cho UBKT các cấp là điểm mới trong các nhiệm kỳ gần đây và nội dung này được thể hiện nhiều nhất trong Quy định số 22-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII. Cần khẳng định rằng, việc tăng thẩm quyền thi hành kỷ luật cho UBKT các cấp là cần thiết để khắc phục tình trạng trong xem xét thi hành kỷ luật, có vụ việc còn nể nang, né tránh, xử lý chưa triệt để hoặc xử lý nhẹ; một số trường hợp vi phạm nghiêm trọng nhưng không chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật mà chỉ xử lý nội bộ; có vụ việc thuộc thẩm quyền cấp dưới xử lý, nhưng cấp dưới không xem xét, xử lý lại đề nghị cấp trên v.v..
Từ Ðại hội III của Ðảng đến nay, theo quy định của Ðiều lệ Ðảng, UBKT cấp trên cơ sở được giao thẩm quyền thi hành kỷ luật đối với đảng viên là cán bộ do cấp ủy cấp mình quản lý, với các hình thức cách chức, lưu đảng, khai trừ (Ðại hội III), nhưng trước khi ra quyết định phải xin ý kiến của cấp ủy cùng cấp. Quy định này cho thấy, Ðảng ta đã xác định vị trí, vai trò quan trọng của UBKT các cấp - cơ quan giúp Ðảng trong công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Ðảng, giữ gìn kỷ luật, kỷ cương của Ðảng; được cấp ủy bầu ra, nắm vững Ðiều lệ Đảng và các quy định của Đảng, có nghiệp vụ chuyên sâu, có cơ quan giúp việc, có cán bộ chuyên trách và phương pháp đúng đắn để thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao cũng như chức năng tham mưu, giúp cấp ủy về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Ðảng.
Để bảo đảm phương châm “công minh, chính xác, kịp thời”, việc tăng thẩm quyền thi hành kỷ luật trong Đảng cho UBKT các cấp là hợp lý, vì kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật cần do cơ quan chuyên trách đảm nhiệm, đối với tổ chức đảng thì UBKT có đội ngũ cán bộ được tín nhiệm và giàu kinh nghiệm. Thực tế cho thấy, nếu không phân cấp cho UBKT xử lý kỷ luật, thì cấp ủy sẽ gặp khó khăn, vì tất cả cán bộ, đảng viên do cấp ủy quản lý có vi phạm đều phải báo cáo cấp ủy xem xét, xử lý kỷ luật, dẫn đến không bảo đảm tính kịp thời. Việc tăng thêm thẩm quyền kiểm tra, giám sát và xử lý kỷ luật đảng viên cho UBKT để cấp ủy dành thời gian lãnh đạo và tổ chức thực hiện các mặt công tác của Ðảng với tư cách là cơ quan lãnh đạo giữa hai nhiệm kỳ đại hội của tổ chức đảng./.
_________________________________________________
(1) Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017, tr.52-53.
(2) Bộ Chính trị: Quy định số 01-QĐ/TW ngày 10.5.2018 về trách nhiệm và thẩm quyền của ủy ban kiểm tra trong công tác phòng, chống tham nhũng, Hà Nội.
(3), (5) ĐCSVN (2016): Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, tr.155, 161.
(4), (6), (7) ĐCSVN (2021): Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.196, 199, 188.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị điện tử ngày 24.5.2022
Bài liên quan
- Mô hình tổ chức đảng trong các tập đoàn kinh tế, tổng công ty, ngân hàng thương mại hiện nay - vấn đề đặt ra và đề xuất
- Xây dựng chính phủ số theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng
- Báo chí - truyền thông trong thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
- Đổi mới tư duy về chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng của Việt Nam
- Nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng trong giai đoạn mới
Xem nhiều
-
1
Mạch Nguồn số 37: Thương nhớ Bác!
-
2
Kênh truyền thông Mạch Nguồn trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
-
3
Mạch nguồn số 38: Tuổi trẻ với pháp luật
-
4
Mô hình tổ chức đảng trong các tập đoàn kinh tế, tổng công ty, ngân hàng thương mại hiện nay - vấn đề đặt ra và đề xuất
-
5
Gần 2.000 tân sinh viên K43 tham gia “Tuần sinh hoạt công dân - sinh viên đầu khóa, năm học 2023 - 2024"
-
6
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh khai giảng năm học 2023-2024
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Phát triển khoa học lý luận chính trị theo quan điểm Đại hội XIII của Đảng
Đây là chủ đề Hội thảo khoa học cấp Bộ do Học viện Báo chí và Tuyên truyền tổ chức sáng ngày 07/9/2023. Những vấn đề lý luận và thực tiễn, cũng như thực trạng phát triển khoa học lý luận chính trị theo quan điểm Đại hội XIII đã được các nhà khoa học thảo luận sâu sắc, cụ thể và toàn diện tại Hội thảo.
Mô hình tổ chức đảng trong các tập đoàn kinh tế, tổng công ty, ngân hàng thương mại hiện nay - vấn đề đặt ra và đề xuất
Mô hình tổ chức đảng trong các tập đoàn kinh tế, tổng công ty, ngân hàng thương mại hiện nay - vấn đề đặt ra và đề xuất
(LLCT&TTĐT) Các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), bao gồm các tập đoàn kinh tế, tổng công ty, ngân hàng thương mại nhà nước, là nòng cốt của kinh tế nhà nước, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, giữ vai trò điều tiết thị trường, ổn định kinh tế vĩ mô và thực hiện những nhiệm vụ chính trị - xã hội quan trọng khác. Với chủ trương đổi mới, sắp xếp lại DNNN của Đảng, cơ cấu tổ chức, cách thức hoạt động, sản xuất, kinh doanh của các DNNN nói chung, trong đó có các tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng thương mại nhà nước nói riêng bước đầu đã có thay đổi. Tuy nhiên, thực tế cũng đang đặt ra nhiều vấn đề cần được tổng kết, nghiên cứu để đổi mới, kiện toàn, sắp xếp lại một cách khoa học và hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn nữa, nhằm đáp ứng và cạnh tranh tốt trong bối cảnh hội nhập quốc tế và phát triển trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng chính phủ số theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng
Xây dựng chính phủ số theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng
(LLCT&TT ĐT) Cuộc cách mạng khoa học công nghệ cùng với sự bùng nổ thông tin mang lại nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra không ít thách thức đối với các quốc gia. Điều này đã buộc chính phủ các nước phải đổi mới tổ chức và hoạt động theo hướng số hóa, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ vào hoạt động quản lý. Tính đến nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã tiến hành chuyển đổi số và bước đầu đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa tích cực. Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản đã có tầm nhìn chiến lược khi đã đưa nội dung chuyển đổi số vào nội dung các nghị quyết. Mới đây, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng cũng đã đề cập trực tiếp đến yêu cầu và mục tiêu chuyển đổi số, xây dựng chính phủ số. Trước xu thế tất yếu của thế giới và quyết tâm chính trị cao xuất phát từ nhận thức ngày càng đầy đủ và toàn diện về vấn đề này, các hoạt động của các cơ quan nhà nước ở Việt Nam cũng đã và đang có sự đổi mới để phù hợp hơn với bối cảnh mới của thời đại số hóa.
Báo chí - truyền thông trong thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
Báo chí - truyền thông trong thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
(LLCT&TT) Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là mục tiêu xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Ở mỗi thời kỳ lịch sử, mục tiêu này được cụ thể thành các nhiệm vụ khác nhau. Để tuyên truyền thực hiện được có hiệu quả các nhiệm vụ lịch sử quan trọng đó thì vai trò của báo chí - truyền thông có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đó chính là những nội dung mà bài viết này muốn đề cập đến.
Đổi mới tư duy về chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng của Việt Nam
Đổi mới tư duy về chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng của Việt Nam
(LLCT&TT) Trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra đường lối mở cửa kinh tế, chuyển nền kinh tế sang kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Cùng với đó, Đảng ta đã từng bước mở rộng, hoàn thiện nhận thức về nhu cầu hội nhập quốc tế một cách chủ động, tích cực, toàn diện, sâu rộng phù hợp với điều kiện của đất nước và yêu cầu thực tiễn đặt ra, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an ninh, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Bài viết này tập trung làm rõ sự đổi mới tư duy chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng của Việt Nam trên 02 phương diện: (1) Đổi mới tư duy đối ngoại và (2) Đổi mới tư duy hội nhập quốc tế.
Bình luận