Yêu cầu rèn luyện phong cách, tác phong của giảng viên đại học
Đội ngũ nhà giáo là nguồn lực vô cùng quan trọng, có tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến việc tạo lập và hình thành kỹ năng, nhân cách người học cũng như chất lượng của mỗi cơ sở giáo dục. Ở bất kỳ chế độ xã hội nào, điều kiện thực tiễn biến chuyển và thay đổi ra sao thì vai trò to lớn của họ cũng không hề mất đi.
Nhấn mạnh vai trò to lớn của nhà giáo, V.I. Lênin chỉ rõ rằng: “Trong bất kỳ một trường học nào, điều quan trọng nhất là phương hướng chính trị và tư tưởng của các giáo trình. Cái gì quyết định phương hướng đó? Hoàn toàn và chỉ là thành phần các giảng viên mà thôi”(1). Người cũng chỉ rõ: “Đội quân giáo viên phải đề ra cho mình những nhiệm vụ giáo dục to lớn và trước hết phải trở thành đội quân chủ yếu trong sự nghiệp giáo dục xã hội chủ nghĩa”(2).
Khi đề cập đến vai trò của giáo dục và đội ngũ nhà giáo, Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhiệm vụ giáo dục là rất quan trọng và vẻ vang, nếu không có thầy giáo thì không có giáo dục… không có giáo dục, không có cán bộ thì không nói gì đến kinh tế - văn hóa”(3). Điều đó, vừa khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của nghề “dạy chữ, dạy người”, vừa nhấn mạnh trọng trách mà xã hội đặt trọn vào đội ngũ nhà giáo.
Nhiệm vụ của nhà giáo là hết sức nặng nề nhưng cũng thật vẻ vang, là người chiến sĩ tiên phong trên mặt trận văn hóa tư tưởng; có sứ mệnh truyền bá cho thế hệ trẻ lý tưởng cách mạng, đạo đức chân chính, hệ thống các giá trị, tinh hoa văn hóa của dân tộc và nhân loại, bồi dưỡng cho họ những phẩm chất cao quý và năng lực sáng tạo, phù hợp với sự phát triển và tiến bộ xã hội.
Hồ Chí Minh luôn coi trọng và yêu cầu cao đối với nghề dạy học, xuất phát từ vị trí của sản phẩm sự nghiệp này tạo ra là thế hệ kế cận, chủ nhân tương lai của đất nước. Do đó, không được phép làm ra “sản phẩm lỗi”. Nếu một nhà giáo tác động không đúng mục tiêu giáo dục đối với cá nhân và nhóm người, có thể gây hậu quả khôn lường đối với các cá nhân, nhóm người và xã hội. Vì lẽ đó, Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi nhà giáo cần phải thường xuyên trau dồi, nâng cao trình độ chuyên môn và đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong và tâm trong sáng.
Khi nói về điều này, một số nhà giáo dục học cho rằng, “không một điều lệ, chương trình, không một cơ quan giáo dục nào dù có tạo ra được sức mạnh khôn khéo như thế nào cũng không thể thay thế được nhân cách của con người trong sự nghiệp giáo dục. Không một sách giáo khoa, một lời khuyên răn nào, một hình phạt, một khen thưởng nào có thể thay thế ảnh hưởng cá nhân người thầy giáo đối với học sinh”(4).
Giảng viên đại học là một bộ phận quan trọng trong đội ngũ nhà giáo tham gia các hoạt động giáo dục, đào tạo. Theo số liệu của Bộ Giáo dục và Đào tạo về giáo dục đại học, Việt Nam hiện có 78.190 giảng viên, 2.145.426 sinh viên, 242 cơ sở giáo dục đại học(5).
Với tư cách là nguồn lực và chủ thể giáo dục quan trọng nhất trong mỗi nhà trường, đội ngũ giảng viên đại học là nhân tố giữ vai trò quyết định trong thực hiện mục tiêu “Đào tạo nhân lực, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài; nghiên cứu khoa học, công nghệ tạo ra tri thức, sản phẩm mới, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế; Đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức; có kiến thức, kỹ năng thực hành nghề nghiệp, năng lực nghiên cứu và phát triển ứng dụng khoa học và công nghệ tương xứng với trình độ đào tạo; có sức khỏe; có khả năng sáng tạo và trách nhiệm nghề nghiệp, thích nghi với môi trường làm việc; có ý thức phục vụ nhân dân”(6).
Đặc điểm nghề nghiệp trong bối cảnh mới đòi hỏi những yêu cầu cao và toàn diện để họ thực hiện đồng thời các chức năng chủ yếu: Nhà giáo, nhà khoa học, nhà cung ứng dịch vụ xã hội.
Xuất phát từ vị trí, vai trò và tính chất nghề nghiệp đặc thù, bên cạnh những kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp cơ bản, đòi hỏi mỗi giảng viên đại học phải hội tụ các phẩm chất của nhà giáo nói chung, đồng thời phải có những phẩm chất chuyên biệt. Trong đó, phong cách, tác phong được xem như “linh hồn” và là thành tố cơ bản bảo đảm cho họ hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ.
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới đã thu được những thành tựu to lớn, góp phần nâng cao tiềm lực, vị thế đất nước, trong đó có vai trò đóng góp của lĩnh vực giáo dục đào tạo. Quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện và xâ dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển nền kinh tế thị trường đã tạo ra môi trường mới để nhà giáo phát triển sự nghiệp, đưa đến nhiều thành tựu to lớn.
Song, cũng có nhiều tác động tiêu cực từ những mặt trái của nó, tạo ra không ít những hệ lụy tiêu cực. Bên cạnh đó là các thế lực thù địch, phản động gia tăng thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” với nhiều thủ đoạn mới tinh vi, xảo quyệt; trong đó có âm mưu làm biến đổi định hướng giá trị trong xã hội theo hướng thúc đẩy sự gia tăng lối sống thực dụng, vụ lợi, vun vén lợi ích cá nhân, xem nhẹ lợi ích tập thể; sợ khuyết điểm, không dám đổi mới.
Tình hình đó đã tác động dẫn đến “tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn biến phức tạp hơn…”(7); “một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””(8).
Trên thực tế, một bộ phận giảng viên đại học thiếu tích cực và xem nhẹ rèn luyện đạo đức, tác phong, lối sống, chưa đề cao trách nhiệm,… nên đã có không ít giảng viên mai một ý chí phấn đấu, thiếu gương mẫu trong chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; một bộ phận giảng viên có biểu hiện phai nhạt lý tưởng, có thái độ bàng quan, thờ ơ với chính trị, phong cách, tác phong chưa chuẩn mực, làm việc cầm chừng.
Một số giảng viên có lối sống thực dụng, đặt tiền tài, địa vị, quyền chức, danh vọng cá nhân thành mục đích của lao động và cuộc sống. Một số giảng viên có quan niệm lệch lạc đã dẫn tới xem nhẹ việc giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo. Cá biệt có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, một số giảng viên vi phạm đạo đức nghề nghiệp, quy định pháp luật; thiếu quyết tâm vượt khó vươn lên.
Có không ít giảng viên hoặc là thụ động, thiếu quyết đoán, quá cứng nhắc, máy móc, thiếu tinh thần đổi mới sáng tạo hoặc là độc đoán cá nhân, coi thường tập thể và sinh viên, chưa đối xử công bằng và tỏ rõ sự thiếu chuẩn mực trong quan hệ thầy - trò, làm việc tùy tiện, thiếu nghiêm túc, vô nguyên tắc, chủ quan, đơn giản, không nhất quán giữa nói và làm, chưa tạo được sự lan toả và nêu gương trước sinh viên…
Chính vì vậy, cùng với việc bồi dưỡng nâng cao trình độ kiến thức, kỹ năng và đạo đức nghề nghiệp, thì tăng cường rèn luyện phong cách, tác phong đối với giảng viên là yêu cầu cơ bản thường xuyên, liên tục.
Phong cách, tác phong được hiểu là cung cách sinh hoạt, làm việc, những hành vi, hành động, xử sự tạo nên những nét đặc trưng riêng của mỗi người, hay hiểu một cách khái quát là cách mỗi người xử lý công việc hàng ngày. Ở mức độ cụ thể, phong cách, tác phong của giảng viên biểu hiện thông qua tác phong làm việc và sinh hoạt chuyên môn, trong tinh thần kỷ luật công tác, trong quan hệ với cấp trên, cấp dưới, đồng nghiệp, quan hệ giao tiếp, ứng xử, tiếp nhận thông tin và giải quyết công việc; trong sinh hoạt đời thường.
Phong cách, tác phong gắn liền với đức tính trung thực, thành tâm, sự tận tụy với công việc, với tổ chức và được biểu hiện hằng ngày trong việc giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần đoàn kết, tương trợ, nếp sống văn minh, thái độ khiêm tốn, biết tự chủ và tự trọng, lời nói đi đôi với việc làm... Phong cách, tác phong là thành tố cơ bản tạo nên giá trị phẩm chất, nhân cách, năng lực thực tiễn của giảng viên, là tiêu chí, thước đo sự khác biệt giữa họ với nhà giáo ở các bậc học khác.
Rèn luyện phong cách, tác phong là cả quá trình phấn đấu lâu dài đòi hỏi mỗi giảng viên phải thực hiện tốt một số yêu cầu cơ bản sau:
Một là, kết hợp chặt chẽ giữa tính kiên định, cứng rắn với sự linh hoạt, mềm dẻo
Yêu cầu đầu tiên mang tính nguyên tắc đối với việc rèn luyện phong cách, tác phong cho giảng viên là làm cho mỗi người trong điều kiện hoàn cảnh nào cũng đều quán triệt sâu sắc nguyên tắc về sự thống nhất giữa tính đảng với tính khoa học, giữa sự cứng rắn, chắc chắn về nhận thức, quan điểm, lập trường giai cấp với tính năng động, sáng tạo, mềm dẻo trong ứng xử linh hoạt, hiệu quả trước mọi tình huống, nhất là những tình huống, vấn đề nhạy cảm, mới xuất hiện, chưa có trong tiền lệ.
Thực chất đây là yêu cầu gắn liền với việc quán triệt và vận dụng quan điểm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Hồ Chí Minh. Theo đó, cái “khả biến” đòi hỏi tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể, giảng viên có thể sử dụng nhiều hình thức, biện pháp khác nhau để có thể tham gia hội nhập, hợp tác quốc tế giáo dục đại học và tiếp thu, lĩnh hội những giá trị văn hóa, tri thức mới của nhân loại để hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao. Cái “bất biến” tạo nên bản chất, giá trị vốn có của phong cách, tác phong là luôn kiên định, vững vàng, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân; gặp thắng lợi, thành công không kiêu ngạo, tự mãn, gặp khó khăn, thử thách không bao giờ hoang mang, nản chí, có bản lĩnh vượt qua những cạm bẫy và cám dỗ, có dũng khí thấy đúng phải bảo vệ, thấy sai phải đấu tranh, đồng thời làm tròn trách nhiệm của “người chiến sĩ văn hóa” trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Trong hoạt động hàng ngày, yêu cầu này thể hiện ở việc mỗi giảng viên phải luôn nắm vững và thực hiện nghiêm ngặt các nguyên tắc, quy chế, quy định trong dạy học, trong quản lý, giáo dục sinh viên, trong nghiên cứu khoa học và phục vụ cộng đồng, kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện nhận thức và hành vi sai trái, tiêu cực. Đồng thời, phải luôn đề cao tinh thần cầu thị, đổi mới sáng tạo không ngừng, tích cực, chủ động, linh hoạt trong lựa chọn cách thức, biện pháp ứng xử các tình huống sư phạm phù hợp với từng đối tượng và nhiệm vụ cụ thể, luôn có sự điều chỉnh và thích nghi với từng vai trò và cương vị khác nhau…
Cứng rắn và mềm dẻo, kiên định và linh hoạt là những phẩm chất không thể thiếu để tạo nên phong cách, tác phong đối với giảng viên. Thực tiễn hoạt động sư phạm, nhất là trong quản lý, giáo dục sinh viên rất đa dạng, phong phú và luôn vận động, biến đổi không ngừng, đòi hỏi sự bình tĩnh, đĩnh đạc nhưng phải khẩn trương, nhanh nhẹn, nói đi đôi với làm, lý luận gắn chặt với thực tiễn, lập trường tư tưởng kiên định vững vàng, có bản lĩnh và trí tuệ, có ý thức tổ chức, kỷ luật cao; không nao núng tinh thần trước mọi khó khăn, thử thách, có lòng dũng cảm, ý chí kiên cường, có ý thức vì tập thể, đồng thời phải tự tin, sáng suốt, nhạy bén để ứng phó kịp thời, linh hoạt, mềm dẻo trước mọi biến đổi của thời cuộc, sự thay đổi của nhiệm vụ với những hình thức, biện pháp biến hóa thích hợp.
Để ứng xử hợp lý, hợp tình trước các tình huống bất ngờ xảy ra, mỗi giảng viên cần có phong cách, tác trong mềm dẻo, phù hợp với những điều kiện lịch sử cụ thể.... Trong ứng xử, giải quyết mọi công việc, tình huống xảy ra, kể cả thường xuyên và đột xuất, nếu cứng nhắc, tuyệt đối hóa nguyên tắc, chỉ chú trọng mệnh lệnh hành chính mà không tính đến điều kiện hoàn cảnh thực tế, con người cụ thể và các tình thế sẽ diễn ra, không dự báo đúng, trúng các phương án để có đối sách, biện pháp giải quyết phù hợp thì mọi việc dù là nhỏ hay là to đều hỏng. Nếu mềm quá sẽ nhu nhược, sinh ra yếu đuối, còn nếu thiếu tính quyết đoán dễ bỏ lỡ thời cơ.
Vì vậy, trong hoạt động, mọi giảng viên đều phải phục tùng nguyên tắc, phải có kỷ luật tự giác nghiêm minh; luôn tự tin, bình tĩnh, biết suy xét cụ thể từng con người, từng sự việc, nhìn nhận rõ ràng từng vấn đề trong hoạt động sư phạm. Muốn vậy, mỗi giảng viên phải được chuẩn bị tâm thế, được học tập, rèn luyện chu đáo, phải thành thạo các kỹ năng đáp ứng với từng vị trí công tác, chức trách, nhiệm vụ được giao.
Điều cốt lõi là từng giảng viên một mặt phải ra sức tự học, tự rèn luyện, tự gột rửa, loại bỏ những thói quen, nếp sống cũ, đã lạc hậu, lỗi thời để rèn phong cách, tác phong mới: nếp sống văn hóa, hiện đại, đoàn kết và gắn bó với tập thể; có sức khỏe, có kiến thức khoa học, nghệ thuật, chính trị vững chắc, luôn quán triệt sâu sắc chức trách, nhiệm vụ. Mặt khác, phải nêu cao tính chiến đấu, tự phê bình và phê bình, chống các biểu hiện tiêu cực, tự do, tùy tiện, thiếu trung thực, vô nguyên tắc. Đồng thời, tránh giáo điều, cứng nhắc, thiếu chủ động, sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ.
Hai là, nêu cao tinh thần trách nhiệm, tích cực tự học, tự bồi dưỡng
Phong cách, tác phong của giảng viên không phải tự nhiên mà có, cũng không phải đào tạo, trang bị một lần là xong. Nó cần được bồi đắp, rèn dũa, mài sáng hằng ngày; thậm chí phải được đào tạo, rèn dũa thành thói quen, kỹ năng sống, học tập, công tác một cách thường xuyên, tự giác.
Động lực thúc đẩy giảng viên rèn luyện phong cách, tác phong là sự thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, nhận thức sâu sắc về bản chất tốt đẹp và tính đúng đắn, sáng tạo của kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt Nam, tinh thần cách mạng, ý chí tiến công; ý thức tập thể, cũng như ý thức chấp hành nghiêm pháp luật của Nhà nước, nội quy, quy định của đơn vị. Điều đó phải được ngấm sâu vào hồn cốt, máu thịt, trở thành niềm tin, lẽ sống, phẩm chất đạo đức, nhân cách của mỗi giảng viên.
Chỉ khi nào, các phẩm chất nhân cách, lẽ sống cao đẹp ấy trở thành thói quen, nền nếp ổn định, vững chắc trong phong cách, tác phong sống của giảng viên thì họ mới say mê, tận tụy với công việc, biết tìm tòi, sáng tạo, đề ra những phương án tối ưu nhất để vượt qua mọi khó khăn, thách thức, quyết tâm hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Phong cách, tác phong của giảng viên là sản phẩm kết hợp nhuần nhuyễn, chặt chẽ giữa ý chí quyết tâm, lòng nhiệt tình cách mạng với sự am hiểu công việc, tinh thông nghiệp vụ chuyên môn theo cương vị, chức trách được giao. Có ý chí quyết tâm, lòng nhiệt tình cách mạng mà thiếu tri thức khoa học, kỹ năng nghề nghiệp, thiếu ý thức chấp hành kỷ luật, tất yếu sẽ dẫn tới việc nhận thức chủ quan duy ý chí và hành động sai trái, tiêu cực.
Vì vậy, mỗi giảng viên phải luôn nêu cao tinh thần tự giác, chủ động, sáng tạo tích cực rèn luyện bản lĩnh, tâm lý, tác phong đi đôi với học tập tích lũy kinh nghiệm chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp và thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện bản thân. Phong cách, tác phong của giảng viên trong điều kiện mới hoàn toàn xa lạ với các biểu hiện chủ quan, nóng vội, đối phó, chiếu lệ “học vì bằng cấp”, thiếu liêm chính trong hoạt động khoa học, hoặc bảo thủ, ngại đổi mới,thu mình khép kín, ngại va chạm, thiếu chí tiến thủ, ngại học, ngại rèn, ngại khó, ngại khổ, bằng lòng với vốn tri thức và kỹ năng hiện có.
Ba là, kết hợp chặt chẽ phát huy vai trò của tập thể và trách nhiệm cá nhân.
Yêu cầu rèn luyện phong cách, tác phong của giảng viên gắn liền với việc thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo đi đôi với phân công cá nhân phụ trách. Thực tiễn cho thấy, một người dù tài giỏi đến đâu cũng không thể nắm được hết mọi mặt của một vấn đề phức tạp, cũng như không thể biết hết được mọi việc trong đơn vị cũng như đời sống xã hội. Vì vậy, trên cương vị công tác của mình, mỗi người phải luôn phục tùng tổ chức, đề cao và tôn trọng tập thể, biết tạo ra bầu không khí học tập, sinh hoạt thực sự dân chủ, biết tiếp thu phê bình và có thái độ cầu thị, học hỏi từ tập thể, từ đồng nghiệp, tích cực thu nhận thông tin phản hồi và giải quyết kịp thời tâm tư, nguyện vọng chính đáng của sinh viên.
Nếu không rèn luyện được phong cách, tác phong ấy thì giảng viên sẽ đề cao thái quá “cái tôi cá nhân”, sẽ sinh ra độc đoán, hành chính hóa hoạt động chuyên môn, cứng nhắc, coi thường đồng nghiệp và người học.
Bên cạnh việc đề cao ý thức tập thể, biết tôn trọng và lắng nghe ý kiến của đồng nghiệp và người học, phát huy trí tuệ của họ, mỗi giảng viên phải luôn đề cao và phát huy trách nhiệm cá nhân. Nếu không có tính quyết đoán, không dám chịu trách nhiệm cá nhân, thì không thể có những quyết định kịp thời, chính xác, đặc biệt dễ dẫn đến xuôi chiều, né tránh, ngại va chạm, dễ thỏa hiệp với các biểu hiện tiêu cực. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong giải quyết các tình huống sư phạm và trong thực tiễn công tác quản lý giáo dục và rèn luyện sinh viên. Những hiện tượng quan liêu, hách dịch, coi thường tập thể, phô trương hình thức, “tranh công đổ tội”, hoặc dựa dẫm, ỷ lại tập thể, không quyết đoán, thỏa hiệp, a dua theo đuôi quần chúng, không nêu cao trách nhiệm cá nhân làm trì trệ, suy giảm hiệu quả giáo dục và đào tạo đều trở nên xa lạ với yêu cầu rèn luyện phong cách, tác phong của giảng viên hiện nay.
Bốn là, thực hiện nói đi đôi với làm, nêu gương trước sinh viên.
Khi nói đến vai trò của nêu gương trong hoạt động giáo dục, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và đối với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”(9). Nêu gương là phương thức giáo dục có sức thuyết phục tốt nhất, hiệu quả nhất, bởi lẽ công tác giáo dục, quản lý rèn luyện sinh viên không thể tiến hành theo kiểu chủ quan, áp đặt mà phải có sự gắn kết chặt chẽ giữa nhiều nội dung, hình thức, biện pháp, gắn kết chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn.
Giảng viên đại học là lực lượng nòng cốt trực tiếp tổ chức giáo dục, quản lý và rèn luyện sinh viên, vì vậy, mỗi lời nói và hành động nêu gương của họ có tác dụng cổ vũ mạnh mẽ đối với các tập thể sinh viên, ảnh hưởng trực tiếp đến tư cách, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của người học. Chính vì vậy, sự gương mẫu của đội ngũ nhà giáo giữa nói và làm, gương mẫu trong tư cách cá nhân và trách nhiệm đối với công việc tạo ra sự lan tỏa và hiệu ứng tích cực để những điều nói ra, những lời giải thích, những vấn đề nêu lên mới dễ dàng được sinh viên lắng nghe, chấp nhận và tự giác thực hiện.
Nâng cao nhận thức, trách nhiệm thực hiện nêu gương của giảng viên là một quá trình kiên trì, bền bỉ và lâu dài, không phải ngày một, ngày hai mà phải tiến hành thường xuyên, liên tục và trở thành việc làm tự giác hằng ngày.
Theo đó, từng người phải xác định rõ mình vừa là đối tượng của quá trình bồi dưỡng, vừa là chủ thể trong quá trình tự bồi dưỡng, rèn luyện để không ngừng nâng cao nhận thức, trách nhiệm, thực hiện nêu gương; phải tự xác định đúng trách nhiệm chính trị, thái độ, động cơ, xây dựng tình cảm trong sáng, nghiêm khắc về trách nhiệm thực hiện nêu gương; giảng viên phải luôn tự phê bình và phê bình, đánh giá đúng bản thân, nhận rõ ưu điểm để ra sức phát huy, thấy hết hạn chế, khuyết điểm để kiên quyết sửa chữa, khắc phục. Đồng thời, tích cực, chủ động xây dựng kế hoạch, xác định nội dung, chương trình, hình thức, phương pháp tự bồi dưỡng, rèn luyện...
Đây là một quá trình tự đấu tranh, giải quyết các mâu thuẫn nội tại trong bản thân mỗi con người, giữa các yếu tố: Khả năng, nhu cầu, tiếp thu cái tốt, loại bỏ cái tiêu cực, lạc hậu. Thường xuyên rèn luyện bản lĩnh chính trị vững vàng, trình độ năng lực, phương pháp, tác phong công tác tốt, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tích cực thực hiện cuộc vận động “mỗi thầy cô giáo là một tấm gương về đạo đức, tự học và sáng tạo” gắn liền với đấu tranh chống các biểu hiện “lệch chuẩn”, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; chống những biểu hiện chủ nghĩa cá nhân, cục bộ, bản vị; hoặc lợi dụng tập thể để né tránh trách nhiệm, lấy danh nghĩa tập thể thực hiện mục đích cá nhân; nói không đi đôi với làm, nói một đằng làm một nẻo./.
_________________________________________________
(1)V.I.Lênin (2005), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H., T.47, tr.248.
(2) V.I.Lênin (2005), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H., T.36, tr.523-524.
(3) Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H., T.10, tr.345.
(4) Lê Văn Hồng (chủ biên) (1998), Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm, Nxb. Đại học quốc gia, H., tr.131.
(5) Văn phòng - Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tờ gấp giáo dục đào tạo năm 2022.
(6) Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012): Luật Giáo dục đại học.
(7) ĐCSVN (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H., tr. 185.
(8) ĐCSVN (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr.92.
(9) Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H., T.1, tr.263.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị điện tử ngày 9/11/2023
Bài liên quan
- Một số yếu tố tác động đến đổi mới phương pháp định hướng dư luận xã hội ở nước ta hiện nay
- Cận ngôn ngữ trong phát biểu trước công chúng
- Nâng cao năng lực tư duy phản biện cho người học trong đào tạo người làm báo ở các trường đại học Việt Nam hiện nay
- Nhà báo Nguyễn Phú Trọng
- Một số vấn đề đặt ra với chuyên ngành Báo ảnh tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- 3 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 4 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 5 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 6 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Quản lý tác động của truyền thông đại chúng và dư luận xã hội đến sinh viên đại học hiện nay
Truyền thông đại chúng và dư luận xã hội đang tác động ngày càng mạnh mẽ, sâu rộng đến mọi người, nhất là thế hệ trẻ, trong đó có sinh viên các trường đại học trên cả bình diện tích cực và tiêu cực. Thực tế cho thấy, việc tác động của truyền thông đại chúng và dư luận xã hội đến sinh viên có vai trò, ý nghĩa hết sức quan trọng, cấp thiết nhằm tạo tâm lý lành mạnh trong cộng đồng sinh viên, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo của các trường đại học hiện nay. Vì vậy, bài viết làm rõ mối quan hệ giữa truyền thông đại chúng và dư luận xã hội; từ đó phân tích nội dung quản lý về tác động của truyền thông đại chúng và dư luận xã hội đến cộng đồng sinh viên, đưa ra một số yêu cầu giúp quản lý, tạo dựng bầu không khí tâm lý lành mạnh trong cộng đồng sinh viên, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo của các trường đại học trong bối cảnh hiện nay.
Một số yếu tố tác động đến đổi mới phương pháp định hướng dư luận xã hội ở nước ta hiện nay
Một số yếu tố tác động đến đổi mới phương pháp định hướng dư luận xã hội ở nước ta hiện nay
Những biến đổi trong đời sống xã hội cùng với những thành tựu của Cách mạng 4.0 và sự phát triển mạnh mẽ của internet và mạng xã hội đã tạo ra môi trường thông tin rộng lớn, dễ tiếp cận nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro như tin giả, thông tin sai lệch. Điều này tác động sâu sắc đến công tác định hướng dư luận xã hội ở nước ta hiện nay. Việc đổi mới phương pháp định hướng dư luận xã hội là một đòi hỏi tất yếu để góp phần vào xây dựng một môi trường thông tin lành mạnh, duy trì sự ổn định xã hội, củng cố niềm tin của người dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
Cận ngôn ngữ trong phát biểu trước công chúng
Cận ngôn ngữ trong phát biểu trước công chúng
Khi phát biểu trước công chúng, người nói không chỉ dùng ngôn từ tác động đến người nghe mà còn dùng giọng nói, trọng âm, tốc độ… để góp phần chuyển tải thông điệp. Những yếu tố ấy chính là cận ngôn ngữ. Bài viết này nhận diện các yếu tố cận ngôn ngữ và vai trò của chúng trong phát biểu trước công chúng.
Nâng cao năng lực tư duy phản biện cho người học trong đào tạo người làm báo ở các trường đại học Việt Nam hiện nay
Nâng cao năng lực tư duy phản biện cho người học trong đào tạo người làm báo ở các trường đại học Việt Nam hiện nay
Giám sát và phản biện xã hội là chức năng cơ bản của báo chí. Để thể hiện được vai trò giám sát và phản biện xã hội của báo chí, người làm báo cần có khả năng phản biện tốt. Trong môi trường thông tin mở, vai trò giám sát và phản biện xã hội càng trở nên quan trọng, đòi hỏi người làm báo nâng cao năng lực hoạt động, trong đó có năng lực phản biện xã hội. Cơ sở và điều kiện của năng lực này là khả năng tư duy phản biện của đội ngũ người làm báo. Bài viết bàn về nâng cao năng lực tư duy phản biện cho người học trong quá trình đào tạo sinh viên chuyên ngành báo chí ở nước ta trong bối cảnh hiện nay.
Nhà báo Nguyễn Phú Trọng
Nhà báo Nguyễn Phú Trọng
Những ngày qua, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam thông báo về tình hình sức khỏe của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Nhân dân cả nước và bè bạn quốc tế lo lắng, cầu mong mọi điều bình an đối với người lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam. Thật buồn, khi tôi đang viết bài này thì phép màu nhiệm đã không đến... Vào lúc 13 giờ 38 phút ngày 19 tháng 7 năm 2024, trái tim người con ưu tú của nước Việt đã ngừng đập…
Bình luận