Kết hợp 3 phương pháp: thuyết trình, nêu vấn đề và đối thoại trong giảng dạy các môn khoa học xã hội
Việc cải tiến, đổi mới phương pháp giảng dạy là một việc làm công phu, phức tạp, đa dạng... nhưng nhất định phải theo cùng một định hướng là: thiết thực, hiện đại, gắn với yêu cầu cuộc sống, nâng cao hiệu quả của dạy và học của thầy và trò để tăng cường giáo dục sinh viên bằng nhiều biện pháp, hình thức linh hoạt, phát huy năng lực tư duy sáng tạo của sinh viên, loại bỏ dần cách dạy “nhồi nhét” và kiểu “học vẹt”, học “đối phó”, “chạy điểm” của sinh viên. Qua việc phát huy năng lực, tư duy sáng tạo, phương pháp giải quyết các vấn đề, sinh viên sẽ giải quyết được các yêu cầu trong bài học và hơn thế sinh viên có thể vận dụng để giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn sôi động, phức tạp, đa dạng của cuộc sống, và như vậy chúng ta đã thực hiện tốt phương châm “học đi đôi với hành, lý luận đi đôi với thực tế” giúp sinh viên sau này có khả năng phát triển tư duy lý luận, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, góp phần đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Với kinh nghiệm của mình trong quá trình giảng dạy, chúng tôi thấy cùng một buổi lên lớp cần kết hợp cả ba phương pháp, đó là: phương pháp thuyết trình kết hợp với phương pháp nêu vấn đề và phương pháp đối thoại trực tiếp, gọi ngắn gọn là phương pháp: “Thuyết - Đối – Nêu” nhằm phát huy ưu điểm và khắc phục được những hạn chế của ba phương pháp đó cùng một lúc.
1. Phương pháp thuyết trình trên lớp
Phương pháp này thường được gọi là phương pháp truyền thống, nó đã trở thành nếp nghĩ, cách làm của nhiều giáo viên từ xưa tới nay. Nhiều người nhận xét rằng phương pháp thuyết trình có ưu điểm là khắc phục được sự thiếu hụt về tư liệu, giáo trình và các thông tin, phương pháp này giúp sinh viên có thể nắm một cách cơ bản nội dung các vấn đề thầy truyền đạt ngay trên lớp. Phương pháp này không đòi hỏi phải có những phương tiện thiết bị, người học đỡ vất vả, người dạy cũng đỡ vất vả, nếu chuẩn bị giáo án tốt lần đầu thì cơ bản cứ thế mà trình bày ở các lần sau.
Tuy nhiên, phương pháp này cũng có một số nhược điểm, và theo thời gian ngày càng bộc lộ nhiều nhược điểm. Phương pháp này không phát huy đầy đủ tính tích cực, độc lập và tư duy sáng tạo của sinh viên; sinh viên tiếp thu kiến thức một cách thụ động, ép buộc và nếu thầy truyền đạt không hấp dẫn, thiếu sức thuyết phục thì sinh viên chán nản, buồn ngủ, không muốn nghe, không muốn ghi chép, chỉ về mượn vở bạn photo. Phương pháp thuyết trình cũng làm cho sinh viên giảm khả năng chuyển hoá kiến thức đã học được thành kiến thức của riêng mình, vì vậy sinh viên ít có khả năng vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết một vấn đề thực tiễn cụ thể. Phương pháp này cũng còn nhiều nhược điểm khác nữa mà mỗi giáo viên trong quá trình giảng dạy đều thấy thấm thía, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Nhiều giáo viên đang rất cố gắng tìm những phương pháp tốt hơn cho cả thầy và trò.
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng lúc sinh thời rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, đặc biệt rất quan tâm đến phương pháp giảng dạy. Bàn về phương pháp này, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “Trong nhà trường điều chủ yếu không phải là nhét cho học trò một mớ kiến thức hỗn loạn, tuy rằng kiến thức là cần thiết. Điều chủ yếu là giáo dục cho phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp diễn tả, rồi đến phương pháp nghiên cứu, phương pháp học tập, phương pháp giải quyết các vấn đề. ở các trường, điều chủ yếu không phải là rèn trí nhớ, mà là rèn trí thông minh”(1).
2. Phương pháp đối thoại - là quá trình trao đổi sự hiểu biết về một vấn đề nào đó giữa thầy và trò
Phương pháp này có tác dụng: giúp sinh viên chủ động nghiên cứu và tiếp thu kiến thức môn học; phát huy tính độc lập suy nghĩ tư duy sáng tạo của sinh viên; rèn luyện phương pháp tư duy khoa học và thuyết trình một vấn đề khoa học; giúp sinh viên đặt ra những thắc mắc đòi hỏi được giải quyết, đồng thời sinh viên cũng tham gia giải quyết những thắc mắc của người khác; giáo viên đánh giá được chất lượng và phát huy năng lực của sinh viên đối với môn học. Phương pháp đối thoại còn góp phần nâng cao trách nhiệm của người thầy trong quá trình giảng dạy, tạo ra sự bình đẳng về chuyên môn giữa thầy vào trò, giúp cho sinh viên có lòng tự tin, để tự khẳng định mình.
3. Phương pháp nêu vấn đề
Thông qua những bài đã học, những bài chưa học hoặc thông qua những buổi đối thoại trên lớp, giáo viên thường nêu lên các vấn đề quan trọng để sinh viên suy nghĩ trả lời.
Phương pháp này có tác dụng: giúp sinh viên xác định được những vấn đề trọng tâm của bài học, chủ động đọc giáo trình, tìm sách tham khảo; chủ động chuẩn bị bài ở nhà (đọc và làm đề cương trước), chủ động nêu thắc mắc để đến lớp trao đổi với thầy giáo và sinh viên khác.
4. Tác dụng của sự kết hợp 3 phương pháp trên
Phương pháp “Thuyết - Đối - Nêu” cùng một lúc khắc phục được những hạn chế của từng phương pháp. Phương pháp này tạo thành một quy trình khép kín giữa thầy và trò, tạo thế liên hoàn giúp sinh viên vừa có thể nắm bắt một cách cơ bản nội dung các vấn đề thầy truyền đạt ở trên lớp, với đối thoại trực tiếp để trao đổi ngay những vấn đề mà giáo viên đặt ra và giải đáp những câu hỏi của sinh viên, đưa sinh viên vào tình huống rồi cùng sinh viên giải quyết tình huống; thông qua đối thoại, thông qua tranh luận giữa các sinh viên, giúp sinh viên hiểu sâu sắc hơn nội dung bài giảng, giúp sinh viên đưa ngay lý luận vào cuộc sống. Còn những vấn đề nào khó cần thời gian, cần tìm hiểu thêm tài liệu và thực tế thì giáo viên gợi mở, định hướng cho sinh viên tự giải quyết lấy vấn đề, giáo viên có thể trình bày một số hướng giải quyết, nhưng vấn đề nêu ra luôn để mở, để sinh viên tìm cách giải quyết tối ưu thông qua tiểu luận, hội thảo và nghiên cứu khoa học. Phương pháp “Thuyết - Đối - Nêu” bắt người học phải động não, rèn luyện tính linh hoạt, từng bước khắc phục tình trạng thụ động trong tiếp thu kiến thức và phát triển năng lực tư duy.
Để làm tốt phương pháp này, đòi hỏi cả thầy và trò phải nỗ lực cao, phải đầu tư nhiều thời gian và công sức. Đối với thầy, đòi hỏi một bản lĩnh khoa học, bản lĩnh chính trị, chịu khó đọc và nghiên cứu, tìm kiếm những thông tin khoa học mới. Đòi hỏi ở người thầy phải thật nhuần nhuyễn kiến thức cơ bản và cả những kiến thức mới về chuyên môn, hoàn toàn thoát ly được giáo án, đòi hỏi người thầy phải có nhiều kinh nghiệm giáo dục và bề dày thâm niên, cùng với những hoạt động thực tiễn của thầy và tâm huyết của nghề, ‘tất cả vì học sinh”.
Để làm tốt phương pháp này, chúng ta cần có những chương trình hỗ trợ phù hợp để củng cố và phát triển các kiến thức đã học bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng như viết tiểu luận, xêmina, nghiên cứu khoa học, chiếu phim khoa học, hội thảo, tham quan, tổ chức các cuộc thi Ôlympic các môn khoa học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh...
Phương pháp “Thuyết - Đối - Nêu” vừa lấy bài giảng làm trung tâm, vừa lấy sinh viên làm trung tâm, phát huy được lợi thế và sức mạnh tổng hợp của thầy và trò. Phương pháp này thể hiện đúng bản chất của phong trào thi đua “Dạy tốt, học tốt” mà Bộ Giáo dục đã đề ra. Trong một buổi lên lớp cần vận dụng nhuần nhuyễn ba phương pháp này, nhưng khi thực hiện cần phải căn cứ vào thời gian để vận dụng phù hợp./.
______________________
Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền số 3 tháng (5+6).2005
(1) Vai trò của phương pháp luận triết học Mác - Lênin với sự phát triển của khoa học tự nhiên (1977), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.243.
TS Hồ Sĩ Lộc
Bài liên quan
- Cán bộ nữ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trước yêu cầu thay đổi: Tâm thế và khả năng thích nghi
- Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện chính sách nhà ở xã hội - Thực trạng và giải pháp
- Giải pháp tăng cường vai trò lãnh đạo của Tỉnh ủy Phú Thọ trong phát triển kinh tế hiện nay
- Thực trạng trải nghiệm định kiến giới của nữ sinh viên Hà Nội và một số khuyến nghị
- Đầu tư cơ sở vật chất tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong giai đoạn hiện nay
Xem nhiều
-
1
Quảng bá di sản văn hóa phi vật thể trên các kênh truyền thông số: Đặc trưng và những yêu cầu đặt ra
-
2
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thông tin về sách giáo khoa trên báo mạng điện tử Việt Nam
-
3
Phát triển lực lượng sản xuất chất lượng mới ở Việt Nam hướng tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa
-
4
Tăng cường nguồn lực tài chính cho chuyển đổi xanh ở Việt Nam
-
5
Diễn ngôn truyền thông về “Vành đai, Con đường”: So sánh giữa Trung Quốc và Đông Nam Á
-
6
Xây dựng đội ngũ tình nguyện viên tại Trung tâm Thông tin khoa học - Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong công tác xử lý tài liệu hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Trẻ tự kỷ trên báo chí: Từ hình ảnh “nạn nhân” đến người hùng - Một nghiên cứu phân tích khung truyền thông
Trong những năm gần đây, tại Việt Nam, hình ảnh trẻ tự kỷ xuất hiện thường xuyên trên báo chí. Không chỉ được khắc họa dưới góc nhìn “nạn nhân” - những cá nhân thiệt thòi, yếu thế, cần sự bảo vệ, trẻ tự kỷ còn được truyền thông ở hình ảnh “người hùng” - những cá nhân giàu nghị lực, tài năng, trở thành nguồn cảm hứng cho cộng đồng. Bài nghiên cứu này vận dụng phương pháp phân tích khung truyền thông (framing analysis) để làm rõ thực trạng truyền thông về hình ảnh trẻ tự kỷ trên báo chí Việt Nam, từ đó, đánh giá tác động đối với nhận thức xã hội, hành vi cộng đồng và chính sách hỗ trợ trẻ tự kỷ ở nước ta hiện nay.
Cán bộ nữ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trước yêu cầu thay đổi: Tâm thế và khả năng thích nghi
Cán bộ nữ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trước yêu cầu thay đổi: Tâm thế và khả năng thích nghi
Trong bối cảnh đất nước đang bước vào giai đoạn phát triển mới với nhiều thay đổi mang tính căn bản và toàn diện, hệ thống Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cũng đang triển khai mạnh mẽ quá trình chuyển đổi nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và quản trị tổ chức. Quá trình này diễn ra ở nhiều chiều cạnh: từ cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động, văn hóa làm việc đến yêu cầu về năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ. Trong đó, đội ngũ nữ cán bộ, giảng viên, người lao động của Học viện giữ vai trò đặc biệt quan trọng, không chỉ là lực lượng nòng cốt trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn mà còn là những chủ thể tích cực tham gia kiến tạo môi trường làm việc đổi mới, nhân văn và phát triển bền vững. Trước yêu cầu thay đổi nhanh chóng, việc xây dựng tâm thế chủ động, nâng cao năng lực thích nghi và khả năng cân bằng của nữ cán bộ trở thành yếu tố then chốt, góp phần khẳng định vị thế của phụ nữ Học viện trong tiến trình chuyển đổi, đồng thời tạo nền tảng cho sự phát triển ổn định, lâu dài của đơn vị.
Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện chính sách nhà ở xã hội - Thực trạng và giải pháp
Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện chính sách nhà ở xã hội - Thực trạng và giải pháp
Trong quá trình đô thị hóa nhanh và áp lực dân số gia tăng, Thành phố Hồ Chí Minh đang đối mặt với một bài toán phức tạp: làm sao để đảm bảo chỗ ở phù hợp cho người dân, đặc biệt là các nhóm thu nhập thấp. Trong bối cảnh đó, tổ chức thực hiện chính sách nhà ở xã hội không chỉ là một nhiệm vụ hành chính đơn thuần, mà đã trở thành một sứ mệnh chiến lược, có ảnh hưởng sâu sắc đến mục tiêu phát triển đô thị bền vững, ổn định thị trường bất động sản và nâng cao chất lượng sống toàn diện. Trong khuôn khổ bài viết tập trung làm rõ những phương thức thực hiện cụ thể của chính quyền thành phố trong việc thực hiện mục tiêu này và đưa ra một số kiến nghị để nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách trong thời gian tới.
Giải pháp tăng cường vai trò lãnh đạo của Tỉnh ủy Phú Thọ trong phát triển kinh tế hiện nay
Giải pháp tăng cường vai trò lãnh đạo của Tỉnh ủy Phú Thọ trong phát triển kinh tế hiện nay
Phát triển kinh tế là một trong những nội dung then chốt, đột phá chiến lược luôn được Tỉnh ủy Phú Thọ chú trọng trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo. Trên cơ sở đó, bức tranh kinh tế của tỉnh đã có nhiều khởi sắc đáng kể, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những khó khăn nhất định, đòi hỏi cần có hệ thống giải pháp phù hợp và hiệu quả để kịp thời tháo gỡ, thúc đẩy phát triển bền vững.
Thực trạng trải nghiệm định kiến giới của nữ sinh viên Hà Nội và một số khuyến nghị
Thực trạng trải nghiệm định kiến giới của nữ sinh viên Hà Nội và một số khuyến nghị
Bài viết trình bày kết quả nghiên cứu thực trạng trải nghiệm định kiến giới của nữ sinh viên Hà Nội trên cơ sở kết quả nghiên cứu chọn mẫu với cỡ mẫu là 468 sinh viên thuộc 3 trường Đại học tại Hà Nội (Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Giao thông vận tải, Học viện Báo chí Tuyên truyền). Kết quả nghiên cứu cho thấy, sinh viên nữ vẫn thường xuyên đối mặt với định kiến giới trong các môi trường khác nhau, trong đó, định kiến giới trên môi trường mạng xã hội (MXH) là phổ biến nhất, tiếp đến là môi trường sống, môi trường học đường, truyền thông đại chúng. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc cần phải tiếp tục có giải pháp phù hợp dần xoá bỏ định kiến giới trong các môi trường xã hội, đặc biệt môi trường MXH.
llcttt1994dientu@gmail.com
024.38348033
Bình luận