Tác động của hoạt động văn hóa đến lối sống đồng bào các dân tộc thiểu số ở nước ta
Trước hết, hoạt động văn hoá góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm của cộng đồng, người dân trong việc xây dựng, bảo vệ môi trường sống trên cơ sở tôn trọng, bảo vệ môi trường thiên nhiên, góp phần nâng cao mức sống vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Trong số 53 dân tộc thiểu số, ngoài 4 dân tộc: Hoa, Khmer, Chăm, Chơ Ro cư trú và sinh sống ở vùng đồng bằng, còn lại các dân tộc đều cư trú chủ yếu ở miền núi, cao nguyên, khu vực biên giới - nơi mưa nhiều, đất đai có độ dốc lớn, xói mòn rất mạnh, được xếp vào hệ sinh thái không bền vững. Nương rẫy là hình thức canh tác chiếm vị trí quan trọng trong đời sống các dân tộc thiểu số, nhất là các dân tộc cư trú ở vùng cao. Trong hệ thống tri thức dân gian ứng xử với môi trường tự nhiên, đồng bào các dân tộc thiểu số có những kinh nghiệm quý rất đáng trân trọng. Ý thức được điều đó, những chủ trương chính sách nhằm bảo tồn, phát huy có chọn lọc các giá trị văn hoá truyền thống của các dân tộc được ban hành và triển khai thực hiện trong thời gian qua đã từng bước khôi phục lại môi trường văn hoá vùng đồng bào dân tộc. Những lễ nghi truyền thống gắn với môi trường thiên nhiên, như: lễ cúng bến nước của cộng đồng các dân tộc bản địa ở Tây Nguyên, Lễ cúng Rừng của các dân tộc Bố Y, Pu Péo ở vùng miền núi phía Bắc,... đã và đang được tổ chức ở nhiều địa phương trong cả nước.
Các hoạt động văn hoá góp phần nâng cao mức hưởng thụ văn hoá, định hướng các giá trị văn hoá mới lành mạnh, phù hợp với trình độ phát triển của người dân, góp phần nâng cao chất lượng sống vùng đồng bào các dân tộc. Các hoạt động văn hóa diễn ra ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong thời gian qua đã góp phần quan trọng vào quá trình bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa tộc người trên địa bàn vùng dân tộc thiểu số, đặc biệt là trong cộng đồng các buôn/làng.
Ngành văn hoá đã chỉ đạo tổ chức các hoạt động giao lưu văn hóa mang tính cộng đồng với nhiều quy mô, cấp độ khác nhau như: định kỳ tổ chức Ngày hội văn hóa, thể thao và du lịch các dân tộc vùng Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nam Bộ; Ngày hội văn hóa dân tộc Mông, Mường, Chăm, Khmer, Hoa; giao lưu văn hóa chuyên đề: Liên hoan hát Then đàn Tính; Giao lưu văn hóa, nghệ thuật vùng biên giới Việt Nam - Lào và Việt Nam - Campuchia,... Các hoạt động giao lưu văn hóa trên vừa phong phú về nội dung, vừa đa dạng về hình thức, phù hợp với điều kiện ở từng địa bàn, từng vùng, đặc biệt được đồng bào hoan nghênh và tích cực tham gia. Việc tổ chức Ngày hội văn hóa, thể thao và du lịch các dân tộc gắn với hoạt động thông tin tuyên truyền lồng ghép trong các chợ phiên ở vùng cao, miền núi trong các lễ hội truyền thống, tiêu biểu ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số,… đã góp phần làm lành mạnh môi trường văn hóa, cải thiện đời sống văn hóa tinh thần tạo điều kiện để đồng bào các dân tộc được giao lưu, trao đổi với nhau từ tiếng nói, trang phục đến các làn điệu dân ca, dân nhạc, dân vũ… Sự hiểu biết này chính là cầu nối, gắn bó tình đoàn kết giữa các dân tộc, tạo nên sức mạnh, nguồn lực để phát triển nền văn hóa dân tộc giàu bản sắc và góp phần xây dựng bản làng, xây dựng quê hương đất nước giàu đẹp, văn minh.
Các hoạt động văn hoá góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm của của cộng đồng, người dân trong việc xây dựng xã hội lành mạnh trên cơ sở tôn trọng phong tục tập quán, nếp sống tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc. Thực tiễn hoạt động văn hoá ở cơ sở trong những năm qua đã và đang từng bước phát huy những mặt tích cực của các “thiết chế xã hội truyền thống” như hương ước, luật tục trong việc tham gia quản lý xã hội ở vùng nông thôn nói chung, vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng. Ví dụ trên địa bàn huyện Bạch Thông (tỉnh Bắc Kạn) đã xây dựng được các hương ước, quy ước thực hiện ở 155 thôn, bản, tổ dân phố. Các hương ước, quy ước đều gắn với việc thực hiện dân chủ ở cơ sở, có nội dung thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình, xây dựng nếp sống văn minh, phù hợp với phong tục, tập quán của địa phương; đặc biệt, nhiều thôn, bản ở các xã vùng cao đã đưa vào hương ước, quy ước những nội dung về bảo vệ và phát triển rừng, chống các tập tục lạc hậu, mê tín dị đoan.
Các hoạt động văn hoá góp phần khẳng định vai trò chủ thể văn hoá của đồng bào các dân tộc thiểu số trong bảo tồn, phát triển văn hoá, đề cao lẽ sống tốt đẹp, tinh thần yêu thương giữa con người với con người, tôn trọng giá trị văn hoá bản sắc của cộng đồng. Lối sống cộng cư trong các làng (bản, buôn, pley) là đặc điểm nổi bật trong xã hội cổ truyền của các dân tộc thiểu số nước ta. Ở đó, cộng đồng cư dân có chung sở hữu về đất đai thổ cư, thổ canh, rừng, bãi chăn thả, sông suối. Trong mỗi buôn, làng đồng bào dân tộc thiểu số các hoạt động kinh tế - xã hội vận hành xung quanh các mối quan hệ giữa con người với môi trường tự nhiên, giữa con người với cộng đồng và giữa con người với con người. Lối ứng xử văn hóa với môi trường tự nhiên cũng như ứng xử văn hóa với con người ấy là lối ứng xử của mọi người, mọi nhà, diễn ra mọi lúc, mọi nơi... Nét nổi bật nhất trong đời sống của các dân tộc thiểu số là tính cộng đồng, tính tập thể, tinh thần tương thân tương ái.
Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực nêu trên, trong những năm qua, hoạt động văn hoá còn một số hạn chế, chưa thực sự thúc đẩy phát triển đời sống kinh tế - xã hội nói chung, đến việc xây dựng lối sống mới tốt đẹp ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng, thể hiện ở các vấn đề sau:
- Một số chính sách, hoạt động văn hoá còn chung chung, hệ thống chính sách về hoạt động văn hoá đối với đồng bào dân tộc thiểu số chưa đảm bảo tính đặc thù, khó triển khai thực hiện. Thực tế cho thấy, các chính sách, đề án về văn hoá các dân tộc thiểu số vẫn thường đứng biệt lập, ít gắn kết với các chương trình, đề án phát triển về kinh tế, bảo vệ môi trường... nên hiệu quả không cao.
- Công tác bảo tồn, phát triển văn hoá ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số chưa kịp thời, cùng với sự tác động của nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan làm cho văn hoá truyền thống các dân tộc thiểu số đang dần bị mai một.
Tác động tích cực của các hoạt động văn hoá chưa theo kịp tốc độ thay đổi nhanh chóng của kinh tế-xã hội, của các điều kiện khách quan từ hội nhập, từ kinh tế thị trường,...Nhiều giá trị văn hóa truyền thống được coi là "kho báu", "vốn quý" của các dân tộc rơi vào quên lãng và đang ngày càng mai một dần bởi nhiều lý do.
- Sự du nhập của các luồng văn hoá mới do thiếu kiểm soát chặt chẽ đã làm cho đời sống văn hoá và các giá trị văn hoá truyền thống các dân tộc thay đổi nhanh chóng. Sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động văn hóa hiện nay đã và đang làm cho không gian văn hóa của các dân tộc thiểu số bị biến đổi, biến dạng, mất đi. Thậm chí, giới trẻ còn cho rằng một số di sản văn hoá phi vật thể đó là lạc hậu, lỗi thời. Chúng ta đều biết, kiến trúc dân gian đặc sắc của đồng bào Tây Nguyên chính là nhà rông, nhà dài và nhà mồ. Tuy nhiên, hiện nay những loại hình kiến trúc đó đang mất dần và thay vào đó là những thiết chế văn hóa hiện đại, mà nhà văn hóa cộng đồng là một thí dụ. Ðiều đáng quan tâm là những thiết chế văn hóa chưa thật sự phù hợp với truyền thống văn hóa của từng tộc người từ vị trí, kiến trúc, trang trí đến công năng. Có một thực tế không thể không quan tâm, đó là hiện nay nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là Tây Bắc và Tây Nguyên (phổ biến là ở các dân tộc: Mông, Thái, Ba Na, Gia Rai), hiện tượng người dân từ bỏ tín ngưỡng truyền thống của dân tộc mình, theo các tín ngưỡng khác (Công Giáo, Thiên Chúa Giáo, Tin Lành và một số Tà đạo khác) có nguy cơ ngày càng trở nên phổ biến. Trong tâm thức của một số dân tộc bản địa ở Tây Nguyên. “Nhà rông là ngôi nhà chung của cộng đồng. Trong văn hoá truyền thống, nhà rông là nơi trú ngụ của các linh vật được coi là thần bản mệnh của làng. Đây cũng là nơi để cộng đồng thực hiện các sinh hoạt, nghi lễ chung. Đối với những làng theo đạo, nhà rông được biến thành nhà nguyện, nơi giáo phu giảng dạy giáo lý. Phía trước những nhà rông truyền thống thường trồng cây nêu để cộng đồng giao tiếp với thần linh được thay bằng cây thánh giá. Cũng có nơi, cây thánh giá được đặt trên ngọn nêu, trên nóc nhà rông” . Điều này gây ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống xã hội, xáo trộn trong tín ngưỡng tâm linh làm đảo lộn nhiều giá trị truyền thống của các dân tộc và đó cũng là một trong các nguyên nhân làm mất ổn định xã hội.
- Sự tham gia của cộng đồng các dân tộc thiểu số với tư cách là chủ nhân văn hoá chưa thực sự được coi trọng trong các hoạt động văn hoá.
Thực tế cho thấy, chúng ta quá đề cao vai trò của quản lý, tổ chức thực hiện hoạt động văn hoá mà dường như quên mất vai trò của chủ thể văn hoá trong hệ thống các hoạt động này. Điều 15 trong Công ước bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO ghi rõ: "Trong khuôn khổ các hoạt động bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, mỗi quốc gia thành viên cần phải nỗ lực để đảm bảo khả năng tham gia tối đa của các cộng đồng, nhóm người và trong một số trường hợp là các cá nhân đã sáng tạo, duy trì và chuyển giao loại hình di sản này và cần phải tích cực lôi kéo họ tham gia vào công tác quản lý”.
Việc Nhà nước đứng ra tổ chức các hoạt động văn hoá nghệ thuật phục vụ đồng bào các dân tộc như vẫn đang làm là hết sức cần thiết, thể hiện sự nhất quán trong chủ trương và hành động nhằm bảo tồn, phát triển văn hoá các dân tộc trong tình hình mới. Nhưng sự tham gia một cách chủ động của người dân vào các hoạt động văn hoá cũng không kém phần quan trọng. Sự tham gia của cộng đồng người dân vào các hoạt động văn hoá có thể được thực hiện trên nhiều lĩnh vực, từ công tác bảo tồn phát huy di sản văn hoá, tổ chức giao lưu văn hoá đến việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở. Thực tế đã minh chứng, sự chủ động tham gia của cộng đồng chủ thể hoặc việc tạo điều kiện thuận lợi, trả lại thẩm quyền văn hóa cho cộng đồng chủ thể để họ tham gia trực tiếp vào việc quản lý, thực hành và truyền dạy di sản với tư cách là những chủ thể thực thụ cần được thúc đẩy bằng nhiều biện pháp và hình thức. Việc bảo tồn di sản văn hoá các tộc người bản địa ngay trong đời sống đã sản sinh và nuôi dưỡng nó (bảo tồn động) mới thực sự là điều cần thiết, quan trọng, đảm bảo cho sự bảo tồn và phát triển di sản văn hoá các dân tộc một cách bền vững. Vấn đề đặt ra hiện nay là cần phải thể chế hoá các quy định nhằm đảm bảo vai trò của cộng đồng trong bảo tồn và phát huy di sản của chính họ. Theo đó, các cơ quan hữu quan chỉ nên đóng vai trò tư vấn, định hướng và hỗ trợ quản lý, đồng thời cần đề xuất và triển khai các hình thức đa dạng để nâng cao năng lực tự quản và bảo vệ di sản cho cộng đồng các dân tộc.
Tuy nhiên, để xác lập được một thiết chế quản lý bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể phải có cơ cấu hỗn hợp, trong đó nòng cốt là những đại diện thành viên cộng đồng. Chỉ khi có cơ chế pháp lý bảo vệ vai trò của cộng đồng thì mới có thể giúp việc bảo tồn đi đúng hướng và đảm bảo lợi ích của việc bảo tồn các di sản văn hoá thuộc về chính cộng đồng các dân tộc. Đây cũng là giải pháp quan trọng để thông qua các hoạt động văn hoá, góp phần xây dựng lối sống lành mạnh ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số.
Trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trước yêu cầu hội nhập để phát triển, nhiều giá trị mới theo làn sóng “toàn cầu hoá” du nhập vào Việt Nam, làm cho các giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam nói chung, các dân tộc thiểu số nói riêng đang đứng trước những thách thức to lớn. Để hoạt động văn hoá góp phần quan trọng trong việc xây dựng đạo đức lối sống của các dân tộc thiểu số nói riêng, con người Việt Nam nói chung, trước hết cần phải không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trên cơ sở đẩy mạnh phát triển kinh tế, tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và hoàn thiện chính sách xã hội; đẩy mạnh phát triển văn hóa, giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ; xây dựng đội ngũ trí thức; đảm bảo và phát huy quyền con người, quyền công dân trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Bên cạnh đó, cần phải có định hướng và tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống các giá trị mới của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế, đặc biệt chú ý tính đặc thù giữa các vùng, miền, dân tộc, đảm bảo sự thống nhất, kế thừa giữa truyền thống với hiện đại, kết hợp sâu sắc giữa giá trị truyền thống tốt đẹp của các dân tộc và giá trị mới. Để làm được điều đó cần phải có sự đồng thuận trong nhận thức và hành động, nâng cao trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và mọi tầng lớp nhân nhân, của mỗi cá nhân và cộng đồng các dân tộc chung sống trên đất nước Việt Nam./.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí điện tử Dân tộc ngày 08.11.2013
Bài liên quan
- Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, tự hào dân tộc cho thanh niên, sinh viên Việt Nam
- Xây dựng lối sống xã hội chủ nghĩa cho sinh viên Thủ đô Hà Nội hiện nay
- Quyết tâm xây dựng Đảng vững mạnh, nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
- Sự tham gia của người dân trong hoạch định chính sách công
- Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 khơi nguồn sáng tạo cho nền văn hoá, văn nghệ nhân dân trong thời đại mới
Xem nhiều
- 1 Mạch Nguồn số 55: Lửa
- 2 Nhà báo Nguyễn Phú Trọng
- 3 Mạch Nguồn số 54: Thắp lửa trị ân
- 4 Lễ tốt nghiệp Chương trình Cử nhân quốc tế Quảng cáo, Quan hệ công chúng và Thương hiệu Khóa V
- 5 Khảo sát sơ bộ đánh giá chất lượng chương trình đào đạo chính quy trình độ đại học tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- 6 Họp Ban Chỉ đạo, Ban Tổ chức kỷ niệm 75 năm truyền thống Học viện (1949-2024)
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Khảo sát sơ bộ đánh giá chất lượng chương trình đào đạo chính quy trình độ đại học tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Sáng 8/8/2024, Đoàn đánh giá ngoài của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục - Trường Đại học Vinh đã thực hiện khảo sát sơ bộ đánh giá chất lượng 04 chương trình đào đạo chính quy trình độ đại học của Học viện Báo chí và Tuyên truyền gồm: ngành Chính trị học, chuyên ngành Truyền thông chính sách; ngành Truyền thông quốc tế; ngành Kinh tế, chuyên ngành Quản lý kinh tế; ngành Quản lý công.
Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, tự hào dân tộc cho thanh niên, sinh viên Việt Nam
Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, tự hào dân tộc cho thanh niên, sinh viên Việt Nam
Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước là tiếp tục phát huy mạnh mẽ lòng tự hào, tinh thần dân tộc, tình yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong mỗi người dân Việt Nam, đặc biệt là trong thế hệ trẻ, những thanh niên, sinh viên - lực lượng tiên phong trong công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội, trở thành chủ nhân tương lai của đất nước.
Xây dựng lối sống xã hội chủ nghĩa cho sinh viên Thủ đô Hà Nội hiện nay
Xây dựng lối sống xã hội chủ nghĩa cho sinh viên Thủ đô Hà Nội hiện nay
Thủ đô Hà Nội nghìn năm văn hiến – đầu não chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế của đất nước Việt Nam, là môi trường thuận lợi góp phần hình thành lối sống xã hội chủ nghĩa (XHCN) của một bộ phận không nhỏ sinh viên học tập trên địa bàn Thủ đô. Tuy nhiên, trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), việc xây dựng lối sống XHCN cho sinh viên Thủ đô cũng gặp không ít khó khăn thách thức. Bài viết đánh giá tầm quan trọng và trình bày nội dung của việc xây dựng lối sống XHCN cho sinh viên Thủ đô Hà Nội hiện nay.
Quyết tâm xây dựng Đảng vững mạnh, nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
Quyết tâm xây dựng Đảng vững mạnh, nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, công cuộc đổi mới đất nước nhất định giành thắng lợi to lớn, Tổ quốc ta ngày càng cường thịnh, nhân dân ta ngày càng hạnh phúc, ấm no, đất nước ta ngày càng phát triển phồn vinh, hùng cường, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết của Đại tướng, GS, TS Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với tiêu đề: “Quyết tâm xây dựng Đảng vững mạnh, nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”:
Sự tham gia của người dân trong hoạch định chính sách công
Sự tham gia của người dân trong hoạch định chính sách công
Sự tham gia của người dân trong quá trình hoạch định chính sách công là rất quan trọng và đem lại nhiều lợi ích. Khi người dân được tham gia đóng góp ý kiến, các chính sách công sẽ phù hợp hơn với nhu cầu và thực tế của cộng đồng. Điều này sẽ giúp nâng cao hiệu quả triển khai chính sách, tăng cường sự đồng thuận và ủng hộ của người dân. Sự tham gia của người dân mang lại sự minh bạch và trách nhiệm giải trình cao hơn cho chính phủ. Các quyết định chính sách được đưa ra dựa trên những thông tin và ý kiến đóng góp từ nhiều phía, giúp chính phủ ra quyết định sáng suốt hơn. Đồng thời, người dân cũng có cơ hội hiểu rõ hơn về các chính sách và có thể giám sát việc thực thi chính sách. Tuy nhiên, việc tham gia cũng cần được thực hiện một cách có hệ thống và hiệu quả. Chính phủ cần xây dựng các cơ chế tham gia phù hợp, đảm bảo sự đại diện đầy đủ của các nhóm dân cư khác nhau, và có biện pháp tiếp thu, xem xét các ý kiến đóng góp một cách công bằng và khách quan; học hỏi kinh nghiệm từ một số nước đã đi trước.
Bình luận