Về cơ sở phương pháp luận của việc đổi mới hình thức công tác tư tưởng
Sự nghiệp đổi mới của nước ta hiện nay đang đòi hỏi các cấp, các ngành, các tổ chức không ngừng nâng cao chất lượng hiệu quả công tác tư tưởng. Vì vậy, cùng với đổi mới nội dung, phương pháp, phương tiện thì đổi mới hình thức công tác tư tưởng cũng đang trở thành một yêu cầu khách quan và bức thiết. Tuy nhiên, hình thức công tác tư tưởng là gì, cách tiếp cận và cơ sở phương pháp luận để đổi mới hình thức công tác tư tưởng ra sao vẫn đang là một câu hỏi không dễ trả lời.
Trong các công trình nghiên cứu về công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Liên Xô trước kia cũng như của Đảng ta từ trước đến nay, hình thức công tác tư tưởng mới được đề cập hết sức ít ỏi. Do đó, cả trong lý luận và thực tiễn, nhiều người thường quan niệm giản đơn rằng: Hình thức công tác tư tưởng là biểu hiện bề ngoài của nội dung, nội dung nào thì hình thức ấy. Tuy nhiên, khái niệm “nội dung” ở đây thường được hiểu là một trong các yếu tố: Chủ thể, đối tượng, nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức… của công tác tư tưởng chứ không phải là nội dung của công tác tư tưởng với tư cách là một sự vật, hiện tượng. Cách hiểu ấy rất khó lý giải các trường hợp cụ thể. Chẳng hạn, chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới là một nội dung tuyên truyền của công tác tư tưởng hiện nay. Vậy hình thức của nội dung đó là gì? phải chăng là một cuốn sách, một tài liệu? Thêm nữa, công tác tư tưởng ở bất cứ một thời điểm nào cũng có rất nhiều nội dung. Sẽ giải thích thế nào khi trên thực tế có nhiều nội dung tuyên truyền giáo dục khác nhau nhưng vẫn chỉ sử dụng một hình thức giống nhau là lên lớp, giảng dạy. Cách hiểu đó rõ ràng chưa làm thoả mãn nhận thức của mọi người, nhất là đối với những người nghiên cứu về công tác tư tưởng.
Trong cuộc sống hàng ngày, có một số khái niệm mà đôi khi nội hàm chưa phản ánh đầy đủ bản chất của sự vật, hiện tượng. Cũng có khái niệm vì quá phức tạp nên được người ta gán cho một nội hàm mặc nhiên nào đấy để dễ thống nhất với nhau. Tuy nhiên, dù tiếp cận ở góc độ nào thì hình thức vẫn là một khái niệm nằm trong cặp phạm trù nội dung và hình thức của triết học. Do vậy, muốn hiểu hình thức công tác tư tưởng là gì nhất thiết phải xuất phát từ quan đểm của triết học duy vật biện chứng. Theo đó, “nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật, còn hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật ấy, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của nó”(1).
Hãy xem công tác tư tưởng là một sự vật, hiện tượng trong đời sống xã hội. Trong khi khoa học về công tác tư tưởng đã chỉ ra các yếu tố bên trong cấu thành công tác tư tưởng đó là: chủ thể, khách thể (đối tượng), mục đích, nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức, hiệu quả(2). Như vậy, toàn bộ các yếu tố nêu trên mới thực sự là nội dung của công tác tư tưởng, còn hình thức công tác tư tưởng đương nhiên phải là tổng hợp các mối liên hệ tương đối bền vững của các yếu tố đó. Trong tự nhiên, các yếu tố của sự vật, hiện tượng kết hợp với nhau một cách tự phát, còn công tác tư tưởng là một hoạt động có mục đích của con người nên sự kết hợp đó hoàn toàn là hoạt động tự giác của chủ thể.
Trong thực tế, không có công tác tư tưởng chung chung mà chỉ có các hoạt động tư tưởng cụ thể đang hiện hữu trong những thời gian và không gian nhất định. Khi ấy các yếu tố cấu thành công tác tư tưởng liên hệ, tác động với nhau theo một kiểu nào đó và tạo ra những hình thức cụ thể của công tác tư tưởng. Đó cũng chính là phương thức tồn tại của công tác tư tưởng với tư cách là một sự vật, hiện tượng. Có hình thức được lặp đi, lặp lại nhiều lần, nhưng cũng có hình thức chỉ xuất hiện trong những hoàn cảnh đặc biệt, duy nhất mà thôi.
Tuy nhiên, trong nghiệp vụ công tác tư tưởng, khái niệm “hình thức” được hiểu là “hình thức phổ biến” tức là đã mang tính khái quát, không đồng nhất với các hoạt động tư tưởng cụ thể, riêng rẽ. Thông thường, trong bất kỳ một hoạt động tư tưởng nào, chủ thể của hoạt động ấy cũng phải xác định mục đích, nội dung, lựa chọn phương pháp, phương tiện tác động đến đối tượng. Nếu sự kết hợp, vận động, tác động qua lại giữa các yếu tố ấy phù hợp, có hiệu quả sẽ được sử dụng nhiều lần. Hoặc có nhiều hoạt động tư tưởng khác nhau nhưng lại có sự kết hợp các yếu tố tương tự như nhau. Cả hai trường hợp ấy đều được khái quát hoá thành những hình thức phổ biến của công tác tư tưởng.
Từ phân tích trên, có thể đưa ra một cách hiểu về hình thức công tác tư tưởng như sau: Hình thức công tác tư tưởng là một dạng hoạt động tư tưởng phổ biến mà trong đó các yếu tố: chủ thể, đối tượng, nội dung, phương pháp, phương tiện công tác tư tưởng kết hợp và tác động với nhau theo một kiểu nhất định nhằm thực hiện mục tiêu công tác tư tưởng.
Có khái niệm khá gần gũi cần phân biệt với khái niệm “hình thức” là “phương thức” công tác tư tưởng. Theo Từ điển tiếng Việt xuất bản năm 1994: “Phương thức là toàn thể những đặc điểm xác định cách tổ chức, tiến hành, thi hành, áp dụng”. Còn theo tiến sĩ Đào Duy Quát, một chuyên gia trong lĩnh vực công tác tư tưởng thì: “… phương thức công tác tư tưởng hiểu theo nghĩa chung nhất là tổng hợp các hình thức, phương pháp, phương tiện tiến hành của chủ thể công tác tư tưởng nhằm tác động đến quá trình tư tưởng trong xã hội”(3). Như vậy, hình thức chỉ là một bộ phận của phương thức, hai khái niệm này không thể thay thế cho nhau. Mặt khác, phương thức vẫn chỉ là khâu nối giữa chủ thể và đối tượng, trong khi hình thức là một hoạt động tư tưởng hoàn chỉnh đã được định hình.
Trong thực tiễn, người ta thường căn cứ vào hoạt động của chủ thể và đối tượng của công tác tư tưởng để đặt tên cho các hình thức. Căn cứ vào hoạt động nghiên cứu và truyền bá của chủ thể có các hình thức: nghiên cứu đề tài khoa học, điều tra xã hội học, thông báo thời sự, giảng dạy lý luận… Căn cứ vào cách tiếp nhận của đối tượng có các hình thức: đọc báo, nghe đài, xem truyền hình, xem biểu diễn nghệ thuật, học tập nghị quyết, tham quan, thi tìm hiểu… Có nhiều hình thức căn cứ vào hoạt động của cả hai yếu tố như: hội thảo, hội nghị, mít tinh, diễn đàn, đối thoại, sinh hoạt chính trị...
Cách phân biệt hình thức với các yếu tố khác của công tác tư tưởng là ở chỗ trong mỗi hình thức bao giờ cũng có đầy đủ các yếu tố, trong khi chủ thể, đối tượng, phương pháp, phương tiện thì chỉ là một yếu tố duy nhất mà thôi. Ví dụ, hội nghị là một hình thức, bởi vì nó có đầy đủ các yếu tố: chủ thể là người chủ trì, đối tượng là người tham gia, mục đích là thông tin hoặc bàn bạc đi đến thống nhất của các đại biểu. Nội dung là đánh giá tổng kết hoặc phổ biến một nhiệm vụ gì đó. Hiệu quả được đo bằng sự thông suốt, nhất trí của các thành viên. Phương tiện là lời nói (ngoài ra còn có các phương tiện vật chất như: hội trường, trang âm, tài liệu...). Phương pháp sử dụng là thông tin, thuyết phục, nêu gương... Nếu coi hội nghị là phương tiện thì nó sẽ là chiếc cầu nối giữa chủ thể và đối tượng, trong khi chủ thể và đối tượng lại nằm chính trong phương tiện đó thì khó có thể chấp nhận được.
Theo triết học, khi nội dung của sự vật, hiện tượng thay đổi, thì sớm hay muộn, hình thức cũng phải thay đổi cho phù hợp với nội dung. Do đó, khi các yếu tố của công tác tư tưởng như chủ thể, đối tượng, nội dung, phương pháp, phương tiện thay đổi thì buộc công tác tư tưởng phải thay đổi sang một hình thức mới. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, dưới tác động của các thành tựu kinh tế - xã hội, hầu hết các yếu tố của công tác tư tưởng đều đang có sự thay đổi. Năng lực của chủ thể có bước phát triển; trình độ dân trí đã được nâng lên; phương tiện đã được hiện đại hoá bởi công nghệ thông tin; phương pháp đối thoại, phát huy tính tích cực của người học trong sư phạm đang được áp dụng rộng rãi. Do vậy, đổi mới hình thức công tác tư tưởng trở thành một đòi hỏi khách quan và bức thiết. Tuy nhiên, cũng phải nói rằng, khi các yếu tố của công tác tư tưởng chưa thay đổi về chất thì các hình thức cũ vẫn tồn tại và phát huy tác dụng.
Thay đổi tính chất, quy mô, mức độ và sự kết hợp giữa các yếu tố, nhất là các yếu tố cơ bản sẽ làm cho hình thức của công tác tư tưởng thay đổi. Lâu nay, nhiều người lầm tưởng cứ học tập nghị quyết là phải lên lớp giảng bài. Giả sử chúng ta không kết hợp hai yếu tố chủ thể và đối tượng của hoạt động tư tưởng này trong không gian trường lớp, mà kết hợp gián tiếp trong không gian tự do; nội dung không phải là toàn bộ nghị quyết mà chỉ chọn lấy cái "tinh thần" của nghị quyết; không chỉ sử dụng phương pháp thuyết phục mà sử dụng phương pháp phát huy tính tích cực của người học; phương tiện không chỉ là lời nói mà bằng nhiều kênh khác nhau. Khi đó, chúng ta sẽ nêu câu hỏi, cung cấp tài liệu, giải thích những vấn đề khó trong nghị quyết và phát huy mọi người tham gia tìm hiểu, có phần thưởng cho bài viết hay nhất, đúng nhất thì lúc đó hoạt động truyền bá nghị quyết của Đảng đã chuyển từ hình thức học tập lên lớp sang hình thức tìm hiểu. Chưa bàn đến hiệu quả của hình thức nào cao hơn, nhưng qua ví dụ đó ta có thể hình dung một trong những nguyên tắc để đổi mới hình thức công tác tư tưởng chính là nghiên cứu tìm tòi, thử nghiệm, đổi mới sự kết hợp và đổi mới các yếu tố bên trong của nó.
Trong công tác tư tưởng có nhiều yếu tố, giữa các yếu tố lại có mối liên hệ khác nhau, cho nên đôi khi chỉ cần thay đổi một yếu tố, một mối liên hệ nào đó là có thể tạo ta một hình thức mới. Mặt khác, một nội dung cũng có thể biểu hiện bằng nhiều hình thức. Đó cũng là nguyên nhân tại sao hình thức công tác tư tưởng lại vô cùng phong phú và đa dạng.
Sử dụng lặp lại một hình thức lâu dần trở thành khuôn mẫu trong tư duy của những người làm công tác tư tưởng. Cứ có nội dung là nghĩ ngay đến một hình thức có sẵn, vì vậy công tác tư tưởng dễ trở nên xơ cứng và nhàm chán. Để đổi mới hình thức, đòi hỏi người làm công tác tư tưởng phải đổi mới tư duy, dũng cảm phá bỏ những khuôn mẫu, mô hình cũ kỹ. Trước mỗi nhiệm vụ, mỗi nội dung tư tưởng, cần trăn trở tìm tòi các hình thức mới trên cơ sở nghiên cứu nắm chắc các yếu tố, mạnh dạn tạo ra các sự kết hơp mới. Sự thay đổi đó đôi khi có thể thất bại, nhưng đó là cái giá cần thiết cho quá trình khám phá, sáng tạo ra các hình thức mới.
Sáng tạo ra hình thức mới là một yêu cầu cao, đòi hỏi người làm công tác tư tưởng phải có tri thức, kinh nghiệm, lòng dũng cảm và niềm say mê, nhiệt huyết với nghề nghiệp. Tuy nhiên, cũng có thể đổi mới hình thức đơn giản hơn bằng việc học tập áp dụng các hình thức mới, có hiệu quả đã xuất hiện ở địa phương, cơ quan, đơn vị nào đó. Làm như thế sẽ tận dụng được trí tuệ, rút ngắn được thời gian, công sức, nhanh chóng làm cho công tác tư tưởng ở địa phương mình trở nên tươi mới hơn.
Một cách làm khác là kết hợp nhiều hình thức trong một hoạt động tư tưởng để bổ sung, hỗ trợ những ưu thế và khắc phục những hạn chế của chúng. Cũng lấy ví dụ hình thức học tập nghị quyết như trên, ngoài việc tổ chức học tập tập trung như hiện nay có thể sử dụng thêm hình thức bổ trợ như: tuyên truyền viên trẻ, thi tìm hiểu, đối thoại... Cách làm này tuy tốn kém thời gian, công sức, thậm chí cả tiền bạc nhưng sẽ làm cho việc học tập nghị quyết bớt nặng nề khô cứng, vốn đã để lại ấn tượng không tốt đối với người học.
Hình thức công tác tư tưởng là một vấn đề phức tạp nhưng không thể vì thế mà chúng ta chịu coi đó là một "lãnh địa bất khả xâm phạm" để chấp nhận tồn tại mãi những hình thức lỗi thời lạc hậu, không còn phù hợp với đối tượng, kìm hãm sự phát triển và yêu cầu đổi mới công tác tư tưởng. Tuy nhiên, cách tiếp cận trên đây mới chỉ là một hướng tìm tòi thử nghiệm, hy vọng sẽ có nhiều ý kiến cùng trao đổi./.
_________________________________
(1) Giáo trình Triết học Mác – Lênin (1999), Nxb. CTQG, Hà Nội, tr.270.
(2) Nguyên lý công tác tư tưởng (2001), Nxb. CTQG, Hà Nội.
(3) Đào Duy Quát (2004), Về công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. CTQG, Hà Nội, tr.170.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền tháng 1,2 năm 2006
Bài liên quan
- Cách tiếp cận phức hợp về an ninh phi truyền thống trong bối cảnh chiến tranh lai và ảnh hưởng sâu rộng của tiến trình chuyển đổi số trong nền an ninh quốc gia (Kỳ 1)
- Cách mạng tháng Tám năm 1945: Bài học về nhận định, vận dụng thời cơ và bảo vệ thành quả cách mạng của Đảng
- Đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quy luật vận động của thời đại cách mạng dân chủ nhân dân
- Tính thống nhất giữa phát triển con người về mặt tự nhiên và xã hội
- Lịch sử hình thành khái niệm văn hóa đại chúng ở phương Tây
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 3 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Hội thảo khoa học: “Chuyển đổi số trong công tác tư tưởng, lý luận ở Việt Nam hiện nay”
Trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang phát triển như vũ bão và đóng vai trò then chốt cho sự phát triển, công tác tư tưởng, lý luận cũng đang đứng trước cơ hội để nâng tầm và hoạt động mạnh mẽ, hiệu lực, hiệu quả nếu biết tận dụng tốt những lợi thế cuộc cách mạng chuyển đổi số 4.0 mang lại.
Cách tiếp cận phức hợp về an ninh phi truyền thống trong bối cảnh chiến tranh lai và ảnh hưởng sâu rộng của tiến trình chuyển đổi số trong nền an ninh quốc gia (Kỳ 1)
Cách tiếp cận phức hợp về an ninh phi truyền thống trong bối cảnh chiến tranh lai và ảnh hưởng sâu rộng của tiến trình chuyển đổi số trong nền an ninh quốc gia (Kỳ 1)
Một trật tự toàn cầu mới đang được định hình, điều đó cũng đồng nghĩa với một sự đòi hỏi về cách tiếp cận an ninh mới do những luật chơi mới định hình. Chiến tranh lai cùng với tiến trình chuyển đổi số đang đặt ra một sự tác động đồng thời, thay đổi bản chất sức mạnh của mỗi quốc gia. Bối cảnh mới này đòi hỏi phải có một tư duy mới về an ninh, tư duy phức hợp, để có thể đồng lúc nhìn thấy từ nhiều chiều kích khác nhau, những tác động an ninh trong một tương quan tổng thể. Thay vì tập trung vào các danh mục của các mối đe dọa, ngăn chặn và phòng ngừa, vấn đề an ninh quốc gia hiện nay được chuyển hướng vào một mục tiêu duy nhất đó là an ninh quốc gia tổng thể, việc ngăn chặn và phòng ngừa cũng phải chuyển hướng sang thích ứng và phản ứng linh hoạt hiệu quả trước mọi tình huống, bằng mọi biện pháp và từ mọi điểm tiếp cận. Các trọng tâm chiến lược cho an ninh quốc gia cũng chuyển từ các mục tiêu cụ thể theo thứ bậc ưu tiên, sang việc dịch chuyển liên tục các mục tiêu theo hướng tấn công vào bất kỳ điểm tiếp cận nào có thể làm suy yếu theo hiệu ứng mạng lưới một cách nhanh nhất sức mạnh quốc gia. Những thách thức mới này, do vậy, đòi hỏi chúng ta phải có một cách tiếp cận phức hợp về an ninh và hình thành nên một khái niệm an ninh phi truyền thống mới - trong đó an ninh truyền thống và các vấn đề phi truyền thống hòa nhập thành một tổng thể.
Cách mạng tháng Tám năm 1945: Bài học về nhận định, vận dụng thời cơ và bảo vệ thành quả cách mạng của Đảng
Cách mạng tháng Tám năm 1945: Bài học về nhận định, vận dụng thời cơ và bảo vệ thành quả cách mạng của Đảng
Cách mạng tháng Tám năm 1945 là mốc son chói lọi, vĩ đại trong lịch sử dân tộc, đưa đất nước bước sang kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; đồng thời để lại nhiều bài học quý báu về nhận định, vận dụng thời cơ và bảo vệ thành quả cách mạng, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quy luật vận động của thời đại cách mạng dân chủ nhân dân
Đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quy luật vận động của thời đại cách mạng dân chủ nhân dân
(LLCT&TT) Đặc điểm lịch sử nổi bật của thời đại cách mạng dân chủ nhân dân đó là sự lớn mạnh của phong trào quần chúng nhân dân trong mọi cuộc vận động xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp vô sản. Bản thân sự ra đời và phát triển của nền văn hoá văn nghệ mới ở Việt Nam trong giai đoạn cuộc cách mạng dân chủ nhân dân gắn liền với cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc. Việc xác lập vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quá trình xây dựng nền văn hoá văn nghệ mới, gắn với những cuộc đấu tranh cách mạng có chiều hướng tiến bộ lịch sử đã tạo điều kiện cho nền văn nghệ nhân dân phát triển hợp qui luật.
Tính thống nhất giữa phát triển con người về mặt tự nhiên và xã hội
Tính thống nhất giữa phát triển con người về mặt tự nhiên và xã hội
Trong lịch sử tiến hóa lâu dài của con người, sự phát triển về mặt tự nhiên và xã hội trong con người có sự thống nhất chặt chẽ, không tách rời. Hai mặt này làm tiền đề cho nhau, nương tựa vào nhau, giúp con người không ngừng hoàn thiện cả thể chất và tinh thần, góp phần nâng cao khả năng thích nghi với môi trường, thúc đẩy sự phát triển.
Bình luận