Chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Bắc Giang
Quan tâm chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn là đạo lý, là việc làm đầy ý nghĩa và nhân văn. Thấm nhuần tinh thần đó, trong những năm qua được sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh, Uỷ ban Dân số - Gia đình và Trẻ em trung ương, Uỷ ban Dân số - Gia đình và Trẻ em tỉnh Bắc Giang coi đây là một nhiệm vụ trọng tâm, đã phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể của tỉnh và trung ương thực hiện công việc chăm sóc trẻ em có nhiều kết quả, làm vơi đi nỗi bất hạnh của chúng, để các em có cơ hội thực hiện quyền cơ bản của trẻ em và hoà nhập vào cộng đồng; đồng thời góp phần làm giảm bớt gánh nặng gia đình của cha mẹ, người thân của các cháu.
Ở Bắc Giang có tới trên 5.000 trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, trong đó trên 4.000 em bị khuyết tật, 1.442 em đang được hưởng chính sách hỗ trợ của Nhà nước và hơn 1.400 em bị ảnh hưởng chất độc màu da cam. Bắc Giang lại là tỉnh miền núi, kinh tế chưa phát triển. Các em có hoàn cảnh khó khăn phần lớn lại xuất thân từ các gia đình nghèo nên việc giúp đỡ về vật chất đối với các em gặp rất nhiều khó khăn. Chính vì thế, ngoài nguồn kinh phí của trung ương hỗ trợ, Uỷ ban DS-GĐ&TE tỉnh đã tích cực vận động tìm các nguồn tài trợ từ lòng hảo tâm của các cá nhân, đoàn thể, các tổ chức phi Chính phủ, tổ chức từ thiện trong tỉnh, trong nước và quốc tế. Đồng thời đề ra nhiều chương trình, hoạt động thực hiện mục tiêu chăm sóc, giúp đỡ các em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn nâng cao tỷ lệ trẻ em khuyết tật và mồ côi được chăm sóc tại cộng đồng.
Để các em có điều kiện tập trung rèn luyện, chữa bệnh, thông qua Quỹ Bảo trợ trẻ em của tỉnh, qua các nguồn tài trợ bằng các dự án của các tổ chức trong nước và quốc tế như: Quỹ Bảo trợ trẻ em Việt Nam, Hội VITAM của Pháp, Hội hạt gạo của Việt Nam tại Pháp, Hội trẻ em thế giới Vương quốc Bỉ... Bắc Giang đã xây dựng Trung tâm phục hồi chức năng tại huyện Lạc Nam. Trung tâm bắt đầu hoạt động từ tháng 3.2003. Ngay từ những ngày đầu, trung tâm đã đón 80 cháu bị khuyết tật vào chạy chữa phục hồi chức năng. Sau một thời gian chạy chữa, luyện tập đã có 23 cháu có chuyển biến tốt. Cùng với Trung tâm phục hồi chức năng, còn có Làng trẻ em khuyết tật. Sau hơn 2 năm hoạt động đến nay, Trung tâm phục hồi chức năng và Làng trẻ em khuyết tật mặc dù còn rất nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, về kinh phí hoạt động, đội ngũ cán bộ, cộng tác viên vẫn vượt khó, yêu trẻ, gắn bó với Làng và Trung tâm để chăm sóc các em. ở đây vẫn duy trì được thường xuyên công tác khám, phân loại trẻ em khuyết tật để hỗ trợ nuôi dưỡng phục hồi chức năng. Đối với các em không còn khả năng phục hồi sẽ được hỗ trợ nuôi dưỡng tại cộng đồng, những em còn có khả năng phục hồi sẽ được tập trung để chạy chữa phục hồi chức năng. ở Làng trẻ em khuyết tật mỗi đợt đón nhận 30 em thuộc các dạng: bại não, bại liệt, câm điếc, khoèo tay, chân được vào làng nuôi dưỡng, chăm sóc. Hàng ngày các em được điều trị vật lý trị liệu như: xoa bóp, bấm huyệt, châm cứu, tập trên máy, dạy chữ, dạy nghề... Phần lớn các em sau một thời gian ở Làng đều tăng cân, khoẻ mạnh, tự vận động đi lại, cầm nắm, phục hồi được trí não...Những em phục hồi tốt đã được đưa trở lại gia đình hoặc gửi đi học nghề miễn phí, Làng lại tiếp tục đón các em khác... Ngoài Trung tâm và Làng trẻ em khuyết tật, Uỷ ban DS-GĐ&TE tỉnh đã tổ chức đội ngũ cộng tác viên và mở lớp hướng dẫn các gia đình có con cháu bị khuyết tật để họ tự điều trị vật lý trị liệu tại nhà cho các cháu. Đội ngũ cộng tác viên đã tập luyện cho 330 cháu tật nguyền cách phát âm đúng.
Qua 2 năm hoạt động đến nay, thông qua Quỹ BTTE tỉnh, các nguồn tài trợ, các dự án của cá nhân và tổ chức từ thiện trong nước và quốc tế Bắc Giang đã tổ chức cho 110 em được phẫu thuật sứt môi, khe hở vòm miệng, 102 em được phẫu thuật dị tật vận động, 60 em được mổ mắt và 5 em được phẫu thuật tim... với tổng kinh phí tới gần 1.000 triệu đồng. Uỷ ban DS-GĐ&TE các cấp trong tỉnh đã cố gắng tăng cường vận động các nguồn lực, phối hợp với các ngành chức năng tuyên truyền vận động toàn dân quan tâm chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh khó khăn bằng nhiều hình thức như: hỗ trợ học bổng 1 lần hoặc thường xuyên, tặng xe lăn, quần áo, đồ dùng học tập, quà nhân dịp Tết, năm học mới... kết quả các khoản trên lên tới gần 2.000 triệu đồng.
Bắc Giang là một trong những tỉnh có tỷ lệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được hỗ trợ chữa bệnh, nuôi dưỡng, chăm sóc tại cộng đồng rất cao, đó là một cố gắng đáng khích lệ. Để các em có hoàn cảnh éo le, bất hạnh được an ủi, đỡ khó khăn, được hoà nhập với cộng đồng và có cuộc sống vui khỏe hơn trong sự chăm sóc của gia đình và xã hội, cần có sự quan tâm hơn nữa của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể, nhất là Uỷ ban DS - GĐ&TE là nơi các em gửi trọn niềm tin và mong đợi./.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền số 4 (tháng 7+8)/2005
Bài liên quan
- Các yếu tố tác động đến sự hình thành dư luận xã hội
- Hiệp định Pari - thắng lợi có ý nghĩa chiến lược dẫn đến đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
- Tăng cường giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên trong bối cảnh hiện nay
- Quyền tiếp cận thông tin cho đồng bào dân tộc thiểu số
- Khu vực duyên hải miền Trung thực hiện chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển và thích ứng với biến đổi khí hậu
Xem nhiều
- 1 Thông báo tuyển sinh Chương trình Cử nhân quốc tế Quảng cáo, Quan hệ công chúng và Thương hiệu năm 2024
- 2 Các yếu tố tác động đến sự hình thành dư luận xã hội
- 3 Phát huy giá trị đạo đức để khơi dậy động lực cống hiến và khát vọng thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nhân Việt Nam
- 4 Vấn đề thu phí trên báo mạng điện tử
- 5 Podcast - biểu tượng sức mạnh của phát thanh hiện đại
- 6 Nâng cao hiệu quả công tác truyên truyền bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở Việt Nam hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Chính sách phân quyền của chủ nghĩa tân tự do trong quản lý giáo dục đại học – Kinh nghiệm triển khai tại một số nước và gợi ý đối với Việt Nam
Chính sách phân quyền là một trong những xu hướng đáng chú ý trong chính sách giáo dục trên toàn thế giới dưới tác động của toàn cầu hóa và chủ nghĩa tân tự do (neoliberalism - một trường phái kinh tế và chính trị tập trung vào việc giảm sự can thiệp của chính phủ trong kinh tế và thúc đẩy tự do kinh doanh và thị trường). Phân quyền được hiểu là sự chuyển giao quyền quyết định về chính sách, kế hoạch, điều hành và phân bổ nguồn lực từ Bộ đến các sở và các trường học. Cơ cấu quản lý như vậy sẽ tăng cường quyền tự chủ và năng lực cạnh tranh giữa các trường, nhưng cũng có thể gia tăng khoảng cách giữa mục tiêu giáo dục và thành tích học tập. Trong bối cảnh quản lý tập trung của Việt Nam, câu hỏi liệu việc phân quyền có thể giúp giáo dục đại học giải quyết các vấn đề về chất lượng, sự bình đẳng và trách nhiệm giải trình hay không vẫn chưa được trả lời thỏa đáng. Vì vậy, bài báo này sẽ làm rõ một số vấn đề về chính sách phân quyền của chủ nghĩa tân tự do trong quản lý giáo dục đại học và bài học kinh nghiệm từ một số nước qua thực tế triển khai.
Các yếu tố tác động đến sự hình thành dư luận xã hội
Các yếu tố tác động đến sự hình thành dư luận xã hội
Dư luận xã hội (DLXH) là một hiện tượng xã hội đặc biệt thuộc lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội, nó phản ánh tồn tại xã hội và do tồn tại xã hội, tức khách thể của DLXH quy định. Tuy nhiên, các đặc điểm về mặt xã hội - nhân khẩu học và văn hóa, tâm lý,… của chủ thể DLXH cũng như môi trường chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, nơi DLXH diễn ra, đều tác động hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp đến quá trình hình thành, phát triển và biến đổi của DLXH. Do đó, những nhân tố tác động đến quá trình hình thành DLXH có thể khái quát thành ba nhóm: nhóm yếu tố thuộc về khách thể của DLXH; nhóm yếu tố thuộc về chủ thể của DLXH và nhóm yếu tố thuộc về môi trường xã hội.
Hiệp định Pari - thắng lợi có ý nghĩa chiến lược dẫn đến đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
Hiệp định Pari - thắng lợi có ý nghĩa chiến lược dẫn đến đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
Hội nghị Paris là cuộc đụng đầu ngoại giao tay đôi đầu tiên giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, kết thúc bằng Hiệp định Paris. Hiệp định Paris đã góp phần tạo nên bước ngoặt rất quan trọng trong cuộc kháng chiến của dân tộc ta, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, từng bước đi vào giải pháp, chấm dứt chiến tranh và can thiệp ở Việt Nam. Việc Mỹ buộc phải “cút” khỏi miền Nam đã mở ra cục diện chính trị và chiến trường thuận lợi để quân và dân ta tiến tới “đánh cho ngụy nhào” mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Tăng cường giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên trong bối cảnh hiện nay
Tăng cường giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên trong bối cảnh hiện nay
Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên là nội dung, biện pháp quan trọng của việc đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo để gắn kết dạy “chữ” với dạy “người”, đào tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao “vừa hồng”, “vừa chuyên” cho đất nước. Bài viết làm rõ vai trò của giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên; thực tiễn giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên với những điểm mạnh, hạn chế, nguyên nhân; đồng thời, đề xuất các biện pháp tăng cường giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên trong thời gian tới.
Quyền tiếp cận thông tin cho đồng bào dân tộc thiểu số
Quyền tiếp cận thông tin cho đồng bào dân tộc thiểu số
Nhằm bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của người dân, nhiều năm qua, Việt Nam đã quan tâm xây dựng và ban hành nhiều chính sách, quy định pháp luật đáp ứng kịp thời đòi hỏi của thực tiễn, trong đó, chú trọng quyền tiếp cận thông tin đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin cho người dân bằng những giải pháp đồng bộ, những chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước trên thực tế đã mang lại hiệu quả tích cực, góp phần phát huy, thúc đẩy vai trò của người dân, trong đó có cả các đồng bào dân tộc thiểu số trong các hoạt động xã hội và phát triển đất nước.
Bình luận