Chế định quyền của đồng bào dân tộc thiểu số trong các bản Hiến pháp
Với xuất phát điểm thấp, điều kiện tự nhiên không thuận lợi, điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đồng bào các dân tộc thiểu số Việt Nam luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Ngoài những chế định chung về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, các bản Hiến pháp Việt Nam còn có những chế định riêng về quyền của đồng bào dân tộc thiểu số. Khi đặt ra những chế định về quyền của đồng bào dân tộc thiểu số thì cũng đồng nghĩa với việc Nhà nước phải có nghĩa vụ trong việc đảm bảo cho đồng bào thực hiện quyền của mình cả trên phương diện pháp lý cũng như trên thực tế.
Sau thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà ra đời đã lãnh đạo nhân dân ta thực hiện công cuộc kháng chiến kiến quốc, bắt tay xây dựng chế độ xã hội mới. Hiến pháp năm 1946 được Quốc hội khoá I thông qua ngày 9.11.1946 gồm 7 chương, 70 điều, trong đó Điều 8, 15, 24, 66 là những chế định riêng về quyền của đồng bào dân tộc thiểu số. Hiến pháp năm 1946 đã nêu lên sự bình đẳng về quyền lợi giữa đồng bào thiểu số với đồng bào cả nước. Bình đẳng về quyền lợi ở đây được hiểu là bình đẳng trước pháp luật và trên các phương diện chính trị, kinh tế, văn hoá. Trong đó về chính trị là “được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tùy theo tài năng và đức hạnh của mình”.
Về sử dụng ngôn ngữ trong giáo dục và trong tư pháp, Hiến pháp quy định “Ở các trường sơ học địa phương, quốc dân thiểu số có quyền học bằng tiếng của mình” (Điều 15) và “Quốc dân thiểu số có quyền dùng tiếng nói của mình trước Toà án” (Điều 66). Hiến pháp cũng quy định rõ việc số nghị viên của những đô thị lớn và những địa phương có quốc dân thiểu số sẽ do luật định (Điều 24). Ngoài ra, Hiến pháp năm 1946 cũng quy định “đồng bào thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện để chóng tiến kịp trình độ chung” (Điều 8).
Những chế định về quyền của đồng bào dân tộc thiểu số được ghi nhận vào bản Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam đã chứng tỏ sự quan tâm đặc biệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ tới đồng bào. Tuy không được công bố song những tư tưởng của Hiến pháp năm 1946 về quyền của đồng bào dân tộc thiểu số đã được thể hiện trong đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Chính phủ đã thành lập Nha Dân tộc thiểu số để thực hiện việc chăm lo đời sống vì sự phát triển của đồng bào. Nhờ những chính sách đúng đắn đó đã huy động được sức người, sức của to lớn cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nhất là ở Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã có sự đóng góp rất lớn của đồng bào các dân tộc thiểu số Thanh Hoá và Tây Bắc.
Sau kháng chiến chống thực dân Pháp, miền Bắc được giải phóng đi lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam vẫn tiếp tục hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất đất nước. Trong giai đoạn cách mạng mới, đứng trước nhiệm vụ to lớn và nặng nề, Hiến pháp năm 1959 được Quốc hội khoá I thông qua ngày 31.12.1959. Trong đó có 8 điều (Điều 3, 82, 92, 93, 94, 95, 96 và 102) có liên quan trực tiếp về quyền của đồng bào dân tộc thiểu số.
Nếu như ở Hiến pháp năm 1946 quyền của đồng bào dân tộc thiểu số được quy định rải rác tại các điều thì Hiến pháp năm 1959 cơ bản đã đưa chúng về một điều (Điều 3) càng thể hiện tầm quan trọng của chế định về quyền của đồng bào dân tộc thiểu số ở nước ta.
Cụ thể hoá hơn nữa quy định: “Ngoài sự bình đẳng về quyền lợi, những quốc dân thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện để chóng tiến kịp trình độ chung” trong Điều 8 Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 đã ghi rõ chủ thể có trách nhiệm giúp đỡ đồng bào dân tộc thiểu số là Nhà nước. Điều 3 Hiến pháp năm 1959 ghi: “Nhà nước ra sức giúp đỡ các dân tộc thiểu số mau tiến kịp trình độ kinh tế và văn hoá chung”. Hiến pháp cũng quy định trách nhiệm của Nhà nước trong việc giữ gìn và phát triển sự đoàn kết giữa các dân tộc. Hội đồng nhân dân có trách nhiệm trong việc “bảo đảm quyền bình đẳng của các dân tộc” ở địa phương. Mọi hành vi khinh miệt, áp bức, chia rẽ dân tộc đều bị nghiêm cấm...
Hiến pháp năm 1959 bổ sung việc quốc dân thiểu số có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của mình trước Toà án (Điều 102) thay vì chỉ có quyền dùng tiếng nói của mình trước Toà án theo như quy định tại Hiến pháp năm 1946.
Hiến pháp năm 1980 được Quốc hội khoá VI thông qua ngày 18.12.1980 gồm có 12 chương, 147 điều. Trong đó có 5 điều (Điều 5, 91, 93, 115, 134) quy định về quyền của đồng bào dân tộc thiểu số.
Cũng như Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 đã giành riêng một điều (Điều 5) để quy định về quyền của đồng bào dân tộc thiểu số và trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ, tăng cường và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc và có kế hoạch xoá bỏ từng bước sự chênh lệch giữa các dân tộc về trình độ phát triển kinh tế và văn hoá.
Điểm mới của Hiến pháp năm 1980 là ở chỗ, nó đã đưa ra quy định về một thiết chế mới trong việc nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội và Hội đồng Nhà nước những vấn đề dân tộc; giúp Quốc hội và Hội đồng Nhà nước giám sát việc thi hành chính sách dân tộc là Hội đồng dân tộc. Chủ tịch Hội đồng dân tộc có quyền tham dự các phiên họp của Hội đồng Nhà nước (Điều 91).
Hội đồng dân tộc có quyền yêu cầu các thành viên của Hội đồng Bộ trưởng và những nhân viên hữu quan khác trình bày hoặc cung cấp tài liệu về những vấn đề cần thiết. Những người được yêu cầu có trách nhiệm đáp ứng yêu cầu đó (Điều 93). Hiến pháp cũng quy định Hội đồng nhân dân có trách nhiệm bảo đảm quyền bình đẳng của các dân tộc (Điều 115).
Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25.12.2001 của Quốc hội) gồm 12 chương, 147 điều, trong đó có 6 điều (Điều 5, 36, 39, 94, 96, 133) quy định về quyền của đồng bào dân tộc thiểu số và trách nhiệm của Nhà nước đối với đồng bào.
Hiến pháp cũng quy định tại Điều 5 về chính sách dân tộc của Nhà nước là Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.
Hiến pháp năm 1992 đã làm rõ hơn thiết chế làm công tác nghiên cứu chính sách dân tộc thuộc Quốc hội là Hội đồng dân tộc và mở rộng thẩm quyền của cơ quan này ở chỗ, Hội đồng dân tộc không chỉ nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội những vấn đề về dân tộc; thực hiện quyền giám sát việc thi hành chính sách dân tộc mà còn có quyền giám sát việc thi hành các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng có đồng bào dân tộc thiểu số. Hiến pháp cũng quy định việc trước khi ban hành các quyết định về chính sách dân tộc, Chính phủ phải tham khảo ý kiến của Hội đồng dân tộc.
Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội khoá XIII thông qua ngày 28.11.2013 gồm 11 chương, 120 điều. Trong đó có 5 điều (Điều 5, 58, 61, 75, 77) quy định về quyền của đồng bào dân tộc thiểu số và chính sách ưu tiên của Nhà nước đối với vùng đồng bào dân tộc cũng như thiết chế làm chính sách dân tộc.
Hiến pháp cũng giành Điều 5 quy định quan điểm về xây dựng chính sách dân tộc cơ bản và lâu dài của Nhà nước là: Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc; về quyền của đồng bào dân tộc thiểu số trong việc dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình, và trách nhiệm của Nhà nước trong việc phát triển vùng đồng bào dân tộc. Trước thực tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn, Hiến pháp năm 2013 cũng quy định về việc Nhà nước có chính sách ưu tiên chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào dân tộc thiểu số và ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn (Điều 58 và Điều 61).
Điểm mới của Hiến pháp năm 2013 so với các bản hiến pháp trước đây là ở chỗ, Hiến pháp năm 2013 không chỉ đưa ra quy định về trách nhiệm của Nhà nước trong việc giúp đỡ đồng bào các dân tộc thiểu số, mà quan trọng hơn là Nhà nước tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước (TG nhấn mạnh). Đây là tư duy mới ghi nhận và khẳng định sự vươn lên của đồng bào dân tộc thiểu số chứ không phải chỉ là trông chờ vào sự giúp đỡ của Nhà nước. Trách nhiệm quan trọng của Nhà nước là xây dựng, ban hành các cơ chế, chính sách thuận lợi để đồng bào phát huy nội lực của mình vươn lên phát triển toàn diện. Đó là điều căn cơ, lâu dài, bởi chỉ khi nào đồng bào dân tộc thiểu số làm chủ cuộc sống của mình thì mới có bình đẳng thực sự. Như vậy, qua các bản Hiến pháp Việt Nam, tư tưởng lập hiến đã tiệm cận với sự bình đẳng trên thực tế giữa các dân tộc ở Việt Nam, dần thoát khỏi tư tưởng trông chờ sự giúp đỡ của Nhà nước đối với đồng bào dân tộc thiểu số, là điều kiện để từng bước xoá bỏ sự kỳ thị dân tộc./.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Dân tộc học ngày 7.5.2015
Bài liên quan
- Đóng góp của Việt Nam với định vị vai trò của ASEAN trong các chương trình nghị sự toàn cầu giai đoạn 2016 - 2025
- Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ các cơ quan chuyên trách, tham mưu giúp việc Đảng ủy đặc khu Bạch Long Vĩ, thành phố Hải Phòng hiện nay
- Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở ở Đảng bộ Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền của Đảng bộ các xã vùng cao ở tỉnh Lào Cai hiện nay
- Tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy Hải Phòng trong phát triển dịch vụ logistics hiện nay
Xem nhiều
-
1
Phim Tài liệu: Video Khoa xây dựng Đảng 50 năm Xây dựng và Phát triển
-
2
Tác động của truyền thông CSR đến niềm tin thương hiệu và ý định mua của người tiêu dùng hiện nay
-
3
Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên các trường đại học ở Hà Nội trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay
-
4
Giải pháp đào tạo nguồn nhân lực báo chí - truyền thông trong kỷ nguyên chuyển đổi số
-
5
Sự thay đổi thói quen, nhu cầu tiếp nhận công tin của công chúng phát thanh đô thị và khuyến nghị với các kênh phát thanh
-
6
Quản trị hoạt động truyền thông thương hiệu bệnh viện công trong bối cảnh chuyển đổi số
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Báo mạng điện tử với cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay
Phòng, chống tham nhũng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên và lâu dài của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội Việt Nam. Trong bối cảnh công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng được đẩy mạnh với quyết tâm chính trị cao, báo chí nói chung và báo mạng điện tử nói riêng ngày càng khẳng định vai trò quan trọng như một kênh thông tin chủ lực, một công cụ giám sát hiệu quả và một lực lượng xã hội tích cực. Với lợi thế về tốc độ, phạm vi lan tỏa và khả năng tương tác cao, báo mạng điện tử không chỉ phát hiện, phản ánh kịp thời các hành vi tham nhũng mà còn góp phần định hướng dư luận xã hội, thúc đẩy minh bạch, tạo áp lực chính trị - xã hội và hỗ trợ hoàn thiện thể chế.
Đóng góp của Việt Nam với định vị vai trò của ASEAN trong các chương trình nghị sự toàn cầu giai đoạn 2016 - 2025
Đóng góp của Việt Nam với định vị vai trò của ASEAN trong các chương trình nghị sự toàn cầu giai đoạn 2016 - 2025
Giai đoạn 2016 - 2025 chứng kiến bước tiến nổi bật của ASEAN trong các chương trình nghị sự toàn cầu về hòa bình, an ninh, phát triển bền vững, bình đẳng giới và ứng phó với các thách thức phi truyền thống. Việt Nam đã có những đóng góp với định vị vai trò của ASEAN trong các chương trình nghị sự toàn cầu như: (i) Chủ trì phiên họp tại Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc (2020 - 2021); (ii) chủ trì các phiên họp về Phụ nữ, Hòa bình và An ninh năm Chủ tịch ASEAN 2020; (iii) tổ chức Diễn đàn Tương lai ASEAN (AFF) năm 2024, 2025. Trên tinh thần đó, bài viết đánh giá thành tựu, hạn chế và nêu kiến nghị tăng cường đóng góp của Việt Nam định vị vai trò của ASEAN tại các chương trình nghị sự toàn cầu thời gian tới.
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ các cơ quan chuyên trách, tham mưu giúp việc Đảng ủy đặc khu Bạch Long Vĩ, thành phố Hải Phòng hiện nay
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ các cơ quan chuyên trách, tham mưu giúp việc Đảng ủy đặc khu Bạch Long Vĩ, thành phố Hải Phòng hiện nay
Chất lượng đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ các cơ quan chuyên trách, tham mưu giúp việc Đảng ủy nói riêng có vai trò đặc biệt quan trọng, là nhân tố trực tiếp quyết định chất lượng, hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị. Đội ngũ này càng vững vàng về phẩm chất, năng lực và bản lĩnh thì công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị càng đạt được kết quả vững chắc, toàn diện. Bài viết làm rõ thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ các cơ quan chuyên trách, tham mưu giúp việc đảng ủy đặc khu Bạch Long Vĩ, thành phố Hải Phòng hiện nay, chỉ rõ những khó khăn, hạn chế; từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu của công tác này thời gian tới.
Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở ở Đảng bộ Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở ở Đảng bộ Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
Chất lượng sinh hoạt chi bộ phản ánh năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và tinh thần trách nhiệm của đảng viên. Sinh hoạt chi bộ nghiêm túc, dân chủ, thiết thực góp phần nâng cao ý thức chính trị, củng cố đoàn kết nội bộ và thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị được giao. Bài viết làm rõ thực trạng sinh hoạt chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở ở Đảng bộ Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, chỉ ra một số hạn chế, bất cập; từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở ở Đảng bộ UBND thành phố Hồ Chí Minh thời gian tới.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền của Đảng bộ các xã vùng cao ở tỉnh Lào Cai hiện nay
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền của Đảng bộ các xã vùng cao ở tỉnh Lào Cai hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay, công tác tuyên truyền của Đảng bộ các xã vùng cao tỉnh Lào Cai có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tạo sự đồng thuận xã hội và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Tuy nhiên, do điều kiện địa lý, trình độ dân trí và cơ sở vật chất còn nhiều khó khăn, hoạt động tuyên truyền ở các xã vùng cao vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Bài báo này tập trung phân tích thực trạng công tác tuyên truyền của Đảng bộ các xã vùng cao tỉnh Lào Cai, chỉ ra những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền trong thời gian tới.
llcttt1994dientu@gmail.com
024.38348033
Bình luận