Phấn khởi bước vào năm 2008 trên đà thắng lợi to lớn về kinh tế - xã hội năm 2007
Năm 2007, trong bối cảnh đất nước không có nhiều thuận lợi: Thiên tai xảy ra liên tiếp với những đợt mưa lớn, lũ quét ở các tỉnh miền núi Tây Bắc; bão mạnh ở khu vực miền Trung và Tây Nguyên; lũ ở Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long; dịch bệnh ở cây trồng, vật nuôi và cả ở người diễn ra trên nhiều tỉnh trong cả nước. Bên cạch đó, kinh tế thế giới có nhiều biến động, giá cả tăng cao… Tình hình trên đã gây nhiều thiệt hại và ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế-xã hội ở nước ta.
Vượt lên tất cả, chúng ta vẫn thu được những kết quả khả quan. Hầu hết các chỉ tiêu kế hoạch về kinh tế-xã hội năm 2007 đều đạt và vượt; trong đó có tới 10 chỉ tiêu của kế hoạch năm năm 2006-2010 đã được hoàn thành. Môi trường đầu tư và hội nhập kinh tế quốc tế có nhiều tiến bộ. Quan hệ đối ngoại ngày càng rộng mở.
Thành tựu nổi bật là nền kinh tế nước ta tiếp tục ổn định và phát triển với tốc độ cao, đạt xấp xỉ 8,5%, cao nhất từ 10 năm trở lại đây. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt 1.143 tỷ đồng, tương đương hơn 71 tỷ USD và GDP bình quân đầu người đạt 13,4 triệu đồng, bằng 835 USD, tăng gấp 4 lần so với năm 1993 (200 USD) với số dân trên 85 triệu người. Các ngành chủ lực, nòng cốt của nền kinh tế là công nghiệp, xây dựng và dịch vụ đều có tốc độ tăng trưởng cao. Công nghiệp tăng 17%, xây dựng tăng 10,6%, dịch vụ tăng 8,7%. Nhiều ngành kinh tế khác như thuỷ sản, chế biến gỗ… cũng tăng trưởng vượt mức. Thu ngân sách Nhà nước bằng 25% GDP, khống chế được mức bội chi dưới 5% GDP, đảm bảo dư nợ của Chính phủ và dư nợ nước ngoài của quốc gia ở mức an toàn. Chúng ta đã đảm bảo sự cân đối kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện vững chắc cho việc ổn định và phát triển kinh tế.
Về kinh tế đối ngoại và hội nhập quốc tế có bước tiến vượt bậc. Tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 109 tỷ USD; trong đó, kim ngạch xuất khẩu đạt 48,4 tỷ USD, tăng 20,5% so với năm 2006 và vượt 3,1% so với kế hoạch. Các mặt hàng xuất khẩu lớn, truyền thống là: dầu thô, giày dép và thuỷ sản, mỗi mặt hàng đạt trên 3 tỷ USD, riêng mặt hàng dệt may đạt 7,8 triệu USD, tăng 32% so với 2006, vươn lên dẫn đầu về giá trị hàng xuất khẩu và là 1 trong 10 nước trên thế giới có hàng dệt may xuất khẩu lớn. Các mặt hàng điện tử, sản phẩm gỗ chế biến đạt trên 2 tỷ USD; đạt trên 1 tỷ USD là gạo, cà phê, cao su… Hàng xuất khẩu của Việt Nam đã có mặt ở gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Kim ngạch nhập khẩu đạt hơn 59 tỷ USD, tăng 31% so với năm 2006. Đã có 4,2 triệu lượt khách du lịch quốc tế đến Việt Nam, đạt mức cao nhất từ trước tới nay và vươn lên là nước đứng thứ 5 trong khu vực về thu hút khách du lịch quốc tế.
Năm 2007, môi trường đầu tư ở nước ta được cải thiện rõ rệt với nhiều chính sách khuyến khích, ưu đãi được các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đánh giá cao.
Về đầu tư trong nước, đã huy động vốn đầu tư toàn xã hội đạt 465 nghìn tỷ đồng, bằng 29 tỷ USD, tăng 16% so với năm 2006 và bằng 40,6% so với GDP; trong đó, vốn đầu tư của khu vực dân cư và tư nhân tăng 19,5%, chiếm 34,4% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Lĩnh vực đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam cũng tăng mạnh, đạt 20,3 tỷ USD, là mức cao nhất từ trước tới nay. Đã có 84 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư FDI vào Việt Nam với hàng nghìn dự án. Về cam kết tài trợ phát triển chính thức ODA cho Việt Nam với tổng vốn ký kết trong 2 năm 2006-2007, ước đạt 6,5 tỷ USD, bằng 40% số vốn tài trợ ODA dự kiến trong 5 năm 2006-2010.
Năm 2007, việc giải ngân nguồn vốn đầu tư cũng có nhiều tiến bộ, đạt 5 tỷ USD, tăng 30% so với năm 2006, trong đó giải ngân vốn ODA đạt trên 2 tỷ USD, vượt 5% so với kế hoạch, là năm thứ 3 liên tục vượt kế hoạch giải ngân ODA. Việc sử dụng vốn đầu tư trong xây dựng kinh tế-xã hội đạt hiệu quả cao. Về cơ cấu đầu tư, đã tập trung vào các lĩnh vực kinh tế chủ chốt như: công nghiệp, xây dựng, điện tử, viễn thông, xây dựng cơ sở h¹ tÇng phôc vô c«ng nghÖ cao…
Thắng lợi về phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam được các chính khách, các tổ chức quốc tế, các nhà tài trợ gồm các tổ chức chính phủ, phi chính phủ, các tổ chức ngân hàng WB, ADB, Liên minh châu Âu-EU… kiểm định và đánh giá cao. Vì thế, tại Hội nghị thường niên các nhà tài trợ phát triển ODA cho Việt Nam, họp tháng 12.2007 tại Hà Nội (CG2007), các nhà tài trợ quốc tế đã khẳng định tiếp tục hỗ trợ cho Việt Nam trong công cuộc đổi mới chấn hưng đất nước và tăng tài trợ ODA cho Việt Nam trong 5 năm tiếp theo. Riêng năm 2008, họ đã cam kết tài trợ 5,42 tỷ USD.
Quan hệ đối ngoại ngày càng được mở rộng và đạt kết quả tích cực. Vị thế của Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế, nhất là Việt Nam được bầu là ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009. Nhiều hoạt động ngoại giao của các nhà lãnh đạo cấp cao của Việt Nam đến các nước và lãnh đạo cấp cao của các nước đến Việt Nam đã tạo điều kiện tốt cho việc hợp tác song phương, nhiều mặt giữa Việt Nam với các nước và vùng lãnh thổ; tạo thuận lợi cho việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế-xã hội. Việt Nam đã trở thành thị trường hấp dẫn, một địa chỉ đáng tin cậy đối với các đối tác đầu tư, các doanh nhân thương mại và là điểm hẹn của du khách quốc tế.
Năm 2007, lĩnh vực xã hội cũng thu được nhiều kết quả tích cực. Vì đây là trụ cột quan trọng của chính sách phát triển kinh tế-xã hội ở nước ta. Nhiều chương trình mục tiêu quốc gia được thực hiện như: Chương trình xoá đói, giảm nghèo; chương trình đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội cho miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng có khó khăn; các chương trình tín dụng cho người nghèo; chương trình chăm sóc đời sống người có công với đất nước… đã mang lại nhiều hiệu quả rõ rệt. Trong hơn 13 năm qua, từ 1993 đến năm 2006, nước ta đã giảm nghèo cho 42% số dân, tương đương 35 triệu người dân. Năm 2007, số hộ nghèo tiếp tục giảm được 3%, từ gần 18% năm 2006 xuống còn 14,7%. Chỉ số phát triển con người tăng lên 4 bậc, từ thứ 109 lên 105 trên 177 nước. Mạng lưới y tế, giáo dục được củng cố. Toàn ngành giáo dục thực hiện “nói không với tiêu cực” được nhân dân đồng tình ủng hộ. Khống chế, dập tắt được các loại dịch bệnh ở cây trồng, vật nuôi và ở người được WHO đánh giá cao.
N¨m 2007, ng©n s¸ch Nhµ níc ®ã dành 8 nghìn tỷ đồng để thực hiện chính sách, chế độ đối với người có công với đất nước; đã giải quyết việc làm cho 1,6 triệu lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống còn 5%. Lĩnh vực xuất khẩu lao động cũng có nhiều thành công, đã đưa 80 nghìn lao động đi làm việc ở nước ngoài góp phần giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp cho đất nước.
Hai nhiệm vụ trọng tâm: cải cách hành chính và phòng chống tham nhũng có những bước tiến mới, tạo lòng tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Công tác cải cách hành chính đựơc tiến hành mạnh mẽ; sắp xếp lại bộ máy quản lý nhà nước, xây dựng bộ máy quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, giảm các đầu mối từ cơ quan Chính phủ đến các bộ, ngành, địa phương. Việc cải cách thủ tục hành chính đã tạo được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân và các doanh nghiệp. Công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm được tăng cường với nhiều biện pháp cụ thể, tập trung hoàn thiện các văn bản pháp luật và chế tài phòng chống tham nhũng, xử lý đúng người đúng tội.
Tình hình chính trị, trật tự, an toàn xã hội, an ninh, quốc phòng được giữ vững và ổn định. Chính sự ổn định xã hội này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện kết quả các mục tiêu kinh tế, đảm bảo cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài yên tâm làm ăn và cũng là đảm bảo cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
Đạt được những kết quả trên chủ yếu là do sự phấn đấu nỗ lực của Việt Nam trong 20 năm đổi mới, của toàn Đảng, toàn dân đã đoàn kết, hợp tác, huy động được sức mạnh tổng hợp của các bộ, ngành, địa phương trong cả nước, cùng với sự hợp tác hỗ trợ của quốc tế.
Những thành tựu về kinh tế-xã hội đạt được trong năm 2007 đã làm tăng sức mạnh tiềm lực kinh tế của đất nước, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, làm cho đất nước tiếp tục phát triển bền vững trong thời kỳ mới - thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mở rộng quan hệ hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế.
Phấn khởi trước những thắng lợi to lớn của năm 2007, chúng ta tự tin bước vào năm 2008- năm có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện kế hoạch 5 năm 2006 - 2010, với mục tiêu: tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 9%, GDP bình quân đầu người đạt 960 USD. Nâng cao đời sống nhân dân, giảm hộ nghèo từ 14,7% xuống dưới 12%. Tiếp tục cải cách hành chính, tạo bước chuyển mới về phòng chống tham nhũng; chủ động hội nhập và thực hiện các cam kết quốc tế trong khuôn khổ WTO, AFTA, APEC và làm tròn nhiệm vụ của Uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc…; nhanh chóng đưa nước ta ra khỏi các nước đang phát triển có thu nhập thấp, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế./.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông số tháng 1.2008
Bài liên quan
- Giới thiệu Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông số tháng 10 năm 2025
- Cán bộ nữ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trước yêu cầu thay đổi: Tâm thế và khả năng thích nghi
- Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện chính sách nhà ở xã hội - Thực trạng và giải pháp
- Giải pháp tăng cường vai trò lãnh đạo của Tỉnh ủy Phú Thọ trong phát triển kinh tế hiện nay
- Thực trạng trải nghiệm định kiến giới của nữ sinh viên Hà Nội và một số khuyến nghị
Xem nhiều
-
1
Giáo dục liêm chính cho đội ngũ cán bộ, công chức nhằm phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay
-
2
Vai trò của lòng biết ơn trong truyền thông giáo dục tại các trường học: Từ góc độ lý thuyết
-
3
Một số lý thuyết vận dụng nghiên cứu nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí
-
4
Thị trường xuất bản phẩm Việt Nam - Thực trạng và xu hướng
-
5
Xây dựng khung đạo đức và quản trị trí tuệ nhân tạo (AI) trong truyền thông chính sách tại Việt Nam
-
6
Nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí của sinh viên hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Truyền thông về an ninh mạng tại hệ thống ngân hàng ở Việt Nam trong môi trường chuyển đổi số hiện nay
Trong xu thế hội nhập quốc tế, chuyển đổi số ở Việt Nam hiện nay, an ninh mạng (ANM) đang là vấn đề cấp thiết và nhận được nhiều sự quan tâm. Sự bùng nổ của các dịch vụ ngân hàng trực tuyến và thanh toán điện tử đã tạo ra một nhu cầu lớn đối với việc xây dựng các biện pháp bảo mật hiệu quả, khi người tiêu dùng chuyển sang sử dụng các ứng dụng di động và trang web của ngân hàng để thực hiện các giao dịch tài chính. Truyền thông về ANM giúp phát hiện và ngăn chặn nguy cơ, tạo ra công cụ để bảo vệ người dùng trước các mối đe dọa của ANM theo quy định pháp luật, xây dựng môi trường tài chính trực tuyến an toàn và tin cậy, đảm bảo hệ thống ngân hàng hoạt động đúng định hướng, ổn định và bền vững. Trên tinh thần đó, bài viết phân tích tác động của truyền thông về ANM đến hệ thống ngân hàng trong môi trường chuyển đổi số để nâng cao hiệu quả truyền thông về ANM tại các ngân hàng của Việt Nam.
Giới thiệu Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông số tháng 10 năm 2025
Giới thiệu Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông số tháng 10 năm 2025
Đến hẹn lại lên, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông số tháng 10 ra mắt bạn đọc với nhiều bài viết giàu giá trị nghiên cứu khoa học và thực tiễn.
Cán bộ nữ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trước yêu cầu thay đổi: Tâm thế và khả năng thích nghi
Cán bộ nữ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trước yêu cầu thay đổi: Tâm thế và khả năng thích nghi
Trong bối cảnh đất nước đang bước vào giai đoạn phát triển mới với nhiều thay đổi mang tính căn bản và toàn diện, hệ thống Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cũng đang triển khai mạnh mẽ quá trình chuyển đổi nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và quản trị tổ chức. Quá trình này diễn ra ở nhiều chiều cạnh: từ cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động, văn hóa làm việc đến yêu cầu về năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ. Trong đó, đội ngũ nữ cán bộ, giảng viên, người lao động của Học viện giữ vai trò đặc biệt quan trọng, không chỉ là lực lượng nòng cốt trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn mà còn là những chủ thể tích cực tham gia kiến tạo môi trường làm việc đổi mới, nhân văn và phát triển bền vững. Trước yêu cầu thay đổi nhanh chóng, việc xây dựng tâm thế chủ động, nâng cao năng lực thích nghi và khả năng cân bằng của nữ cán bộ trở thành yếu tố then chốt, góp phần khẳng định vị thế của phụ nữ Học viện trong tiến trình chuyển đổi, đồng thời tạo nền tảng cho sự phát triển ổn định, lâu dài của đơn vị.
Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện chính sách nhà ở xã hội - Thực trạng và giải pháp
Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện chính sách nhà ở xã hội - Thực trạng và giải pháp
Trong quá trình đô thị hóa nhanh và áp lực dân số gia tăng, Thành phố Hồ Chí Minh đang đối mặt với một bài toán phức tạp: làm sao để đảm bảo chỗ ở phù hợp cho người dân, đặc biệt là các nhóm thu nhập thấp. Trong bối cảnh đó, tổ chức thực hiện chính sách nhà ở xã hội không chỉ là một nhiệm vụ hành chính đơn thuần, mà đã trở thành một sứ mệnh chiến lược, có ảnh hưởng sâu sắc đến mục tiêu phát triển đô thị bền vững, ổn định thị trường bất động sản và nâng cao chất lượng sống toàn diện. Trong khuôn khổ bài viết tập trung làm rõ những phương thức thực hiện cụ thể của chính quyền thành phố trong việc thực hiện mục tiêu này và đưa ra một số kiến nghị để nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách trong thời gian tới.
Giải pháp tăng cường vai trò lãnh đạo của Tỉnh ủy Phú Thọ trong phát triển kinh tế hiện nay
Giải pháp tăng cường vai trò lãnh đạo của Tỉnh ủy Phú Thọ trong phát triển kinh tế hiện nay
Phát triển kinh tế là một trong những nội dung then chốt, đột phá chiến lược luôn được Tỉnh ủy Phú Thọ chú trọng trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo. Trên cơ sở đó, bức tranh kinh tế của tỉnh đã có nhiều khởi sắc đáng kể, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những khó khăn nhất định, đòi hỏi cần có hệ thống giải pháp phù hợp và hiệu quả để kịp thời tháo gỡ, thúc đẩy phát triển bền vững.
llcttt1994dientu@gmail.com
024.38348033
Bình luận