Xử lý khủng hoảng truyền thông về đạo đức công vụ
1 - Vấn đề quản trị khủng hoảng và quản trị truyền thông trong khủng hoảng cũng như khái niệm truyền thông ở Việt Nam mới được làm quen khoảng hai mươi năm trở lại đây, khi các cơ quan, tổ chức trong hệ thống ngày càng quan tâm nhiều hơn đến mối quan hệ với công chúng xã hội, với nhân dân… Đây là sự tiến bộ góp phần vào quá trình phát triển bền vững.
Báo chí có khả năng, sức mạnh chi phối khuynh hướng xã hội. Vị thế và vai trò của báo chí Việt Nam trong thời kỳ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang có sự thay đổi mạnh mẽ và nhanh chóng bởi nền tảng kỹ thuật - công nghệ số. Những nền tảng này đã tạo ra một môi trường truyền thông đa dạng, trong đó hệ sinh thái truyền thông online với mạng xã hội phát triển trở thành “sân chơi” gây nhiều ảnh hưởng tới công chúng xã hội Việt Nam.
Thời gian qua, một số vụ, việc liên quan đến đạo đức công vụ khiến báo chí, mạng xã hội “nóng” lên, nhiều sự việc lại không được giải quyết nhanh gọn, kéo dài nhiều tháng gây nên khủng hoảng truyền thông. Vấn đề đặt ra, đang được quan tâm ở đây là các sự kiện và khủng hoảng rồi sẽ trôi qua, nhưng cái đọng lại chủ yếu là được hay mất niềm tin xã hội, uy tín, quyền uy của các cơ quan, tổ chức và cán bộ, công chức, viên chức trong mắt người dân. Bởi, nó không như khủng hoảng trong lĩnh vực kinh doanh là mất tiền, mất thị trường - những thứ có thể kiếm tìm hay phục hồi trong nay mai. Bởi, mất niềm tin là mất tất cả.
Các hoạt động công vụ trong hệ thống chính trị đều cần phải tuân thủ hai hệ quy chiếu: pháp luật và đạo đức công vụ. Về pháp luật, cán bộ, công chức, viên chức chỉ được phép làm những điều pháp luật cho phép. Về đạo đức, cán bộ, công chức, viên chức cần phải tuân thủ các chuẩn mực giá trị đạo đức công dân, phải làm gương trước công dân và cộng đồng xã hội, đồng thời phải thực thi đạo đức công vụ của ngành, nghề mà họ theo đuổi. Cán bộ, công chức là “đội quân rường cột quốc gia”, “được dân nuôi”, được thực hiện “quyền ủy quyền” do nhân dân trao cho, phương châm hoạt động được Đảng và Nhà nước xác lập là “Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” và theo nguyên tắc “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, nên mọi hoạt động công vụ của cán bộ, công chức, viên chức được nhân dân theo dõi, giám sát. Và trong những năm qua, phương tiện và phương thức giám sát xã hội mà công dân và cộng đồng sử dụng chủ yếu và có hiệu quả nhất là báo chí - truyền thông, trong đó có mạng xã hội.
Trong xã hội, mỗi ngành nghề yêu cầu chủ thể những phẩm chất và cách thức ứng xử đặc trưng, do xã hội đòi hỏi và tự hình thành cơ chế kiểm soát. Về đạo đức công vụ, Hiến pháp Việt Nam năm 2013 khẳng định: “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền”(1). Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến đạo đức công vụ, như Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998, Pháp lệnh sửa đổi Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 2003, Luật Cán bộ, công chức năm 2008, Luật Viên chức năm 2010, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm 2019, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, 2018, Pháp lệnh Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 1998, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2013, Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan (ban hành theo Nghị định số 71/1998/NĐ-CP, ngày 8-9-1998, của Chính phủ)... Có thể nói, hệ thống văn bản pháp quy liên quan đến thực thi công vụ, về cơ bản đã tương đối đầy đủ. Nhưng, những vi phạm pháp luật và đạo đức công vụ ngày càng diễn biến phức tạp, nhất là trong bối cảnh môi trường truyền thông số và mạng xã hội phát triển. Do đó, vấn đề ở đây là khi xảy ra khủng hoảng do truyền thông hay thực sự có khủng hoảng truyền thông liên quan đến đạo đức công vụ đều phải quản trị bằng cả “biện pháp cứng” (các quy định pháp luật) và cả các “biện pháp mềm” (giáo dục ý thức tự giác,…).
Các giá trị đạo đức nói chung và đạo đức công vụ nói riêng vốn do cộng đồng và dư luận xã hội tạo dựng, nuôi dưỡng và kiểm soát. Trong bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay, vấn đề đạo đức càng được dư luận xã hội đặc biệt quan tâm. Khi sự kiện xảy ra liên quan đến đạo đức công vụ thì luôn mang sức nóng, sức hấp dẫn đối với dư luận xã hội, đặc biệt được truyền thông xã hội chú ý, soi chiếu. Đây là cơ hội tốt để các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị sử dụng truyền thông xã hội, mạng xã hội và báo chí để kiểm soát các chuẩn mực công vụ đã được ban hành; sử dụng giám sát xã hội để giám sát quá trình thực thi công vụ nhằm cải thiện hình ảnh cán bộ, công chức, viên chức, gây dựng niềm tin của người dân với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức bộ máy chính quyền trong hệ thống chính trị. Tuy nhiên, đây cũng là thách thức trong việc giữ gìn hình ảnh đối với các cơ quan, tổ chức. Nếu để truyền thông tập trung quá mức cần thiết, nhất là theo chiều hướng tiêu cực thì sẽ ảnh hưởng đến uy tín, hình ảnh của cơ quan, tổ chức. Xét cho cùng, quản trị tốt truyền thông, đặc biệt trong bối cảnh có khủng hoảng không chỉ là nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà nước mà còn là nhiệm vụ tự thân của chính các cơ quan, tổ chức, của chính từng cán bộ, công chức. Ngày nay, với xu thế phát triển chung, chúng ta không thể coi nhẹ, không thể không chăm lo, xử lý tốt mối quan hệ với công chúng xã hội/khách hàng và nhân dân nói chung. Mối quan hệ hết sức quan trọng và ý nghĩa này đang được nâng tầm thông qua báo chí - truyền thông.
2- Để giải quyết khủng hoảng truyền thông về đạo đức công vụ một cách căn cơ, cần hệ thống giải pháp đồng bộ từ bên trong thể chế, nhất là vấn đề pháp trị cho đến các “vành đai” kiểm soát xã hội, thông qua giám sát xã hội và phản biện xã hội của nhân dân. Cụ thể:
Thứ nhất, cần nhận định đúng và trúng tính chất, nguyên nhân xảy ra sự kiện, vấn đề mấu chốt đang gây “nóng” dư luận; tránh nhận thức chủ quan, duy ý chí, áp đặt hay nể nang, tìm cách bao che; cần phân tích khu vực và hướng tác động, ảnh hưởng của sự kiện gây khủng hoảng để có phương án khoanh vùng, hạn chế, đi đến dập tắt khủng hoảng. Tổ chức rút kinh nghiệm và khôi phục tình trạng ban đầu. Đây là việc không dễ, càng phức tạp và khó khăn hơn trong bối cảnh lợi ích nhóm dễ thao túng.
Thứ hai, người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước sau khi nhận định, đánh giá một cách nghiêm túc, nắm bắt thông tin một cách toàn diện, cần tổ chức họp báo, cung cấp thông tin chính thức cho báo chí truyền thông để ngăn ngừa các luồng ý kiến lệch lạc, xuyên tạc, bất lợi cho tâm lý và tâm trạng xã hội. Trong phát ngôn cung cấp thông tin cho báo chí - truyền thông, cần tuân thủ nguyên tắc nói nhanh, nói hết và nói đúng. Nói nhanh để chiếm lĩnh diễn đàn và có cơ hội chi phối dư luận. Nói hết là không giấu thông tin liên quan đến sự kiện gây khủng hoảng. Nói đúng là để tạo sự chia sẻ, thể hiện thái độ chân thành, nhận trách nhiệm với công chúng xã hội. Thực tế vừa qua một số sự kiện gây “bão” không những xử lý chậm trễ, còn xử lý sai lệch đã tạo ra “vòng xoáy im lặng” tiềm ẩn nguy cơ bùng phát. Người lãnh đạo đứng đầu với những yêu cầu trách nhiệm cơ bản là tạo dựng niềm tin xã hội, thuyết phục công chúng và nhân dân bằng uy tín, niềm tin và sự tôn trọng thực tế luôn phải đặc biệt chú ý yếu tố này. Quản trị khủng hoảng truyền thông có thể là "cơ hội vàng" cho người lãnh đạo nhưng cũng có thể là cái bẫy nhấn chìm uy tín của họ.
Thứ ba, quản trị nội bộ tốt, tức là các cơ quan phải nhanh chóng nhận ra sai sót (nếu có), không né tránh sự thật, không tìm cách bao che cho nhau, cần nghiêm khắc kiểm điểm, nhận sai sót trước tổ chức; từ đó cầu thị và chân thành sửa chữa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn, phê bình và tự phê bình cần phải làm như rửa mặt hằng ngày và phải công khai cho mọi người biết để cùng rút kinh nghiệm. Đây là vấn đề quản trị khủng hoảng.
Thứ tư, đặc tính chung của khủng hoảng là sự kiện xảy ra bất ngờ, thậm chí không ngờ, gây căng thẳng, tạo tâm điểm thu hút, mất kiểm soát thông tin, gây xáo trộn nhận thức và thường có xu hướng tác động xấu đến các mối quan hệ hiện tồn, làm giảm sút nghiêm trọng niềm tin của công dân/công chúng/khách hàng và xã hội nói chung. Trong bối cảnh môi trường truyền thông số và mạng xã hội, những rủi ro và tác động xấu của khủng hoảng càng gia tăng theo cấp số nhân, do vậy để xử lý được khủng hoảng thì các cơ quan quản lý trước hết phải làm chủ được công nghệ, biết cách thiết lập quan hệ truyền thông trên mạng xã hội và quản trị quan hệ trên mạng xã hội; đồng thời khi có khủng hoảng xảy ra chú ý xử lý các nguồn tin và địa chỉ trên mạng xã hội nhanh và hiệu quả.
Thứ năm, người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cần quan tâm thiết lập, phát triển mối quan hệ với cộng đồng, với nhân dân thông qua báo chí - truyền thông xã hội, coi đây là việc quan trọng trong quan hệ với quần chúng nhân dân; bảo đảm quyền được biết, được thông tin và quyền tiếp cận thông tin của nhân dân theo luật định. Quan điểm, thái độ và cung cách ứng xử trong quan hệ với cộng đồng chính là đạo đức công vụ của cán bộ, công chức, viên chức nhà nước.
Thứ sáu, giải pháp quan trọng nhất là thường xuyên chăm lo sinh hoạt nội bộ cơ quan/tổ chức để giáo dục cán bộ, công chức, viên chức trong từng cơ quan; tăng cường kỷ luật và phát huy dân chủ nội bộ để bảo đảm đạo đức công vụ được quán triệt, nhắc nhở, thực hiện thường xuyên./.
(1) Điều 8, khoản 2, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013
________________________
Bài đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 02.10.2020
PGS, TS Nguyễn Văn Dững
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Nguồn: tapchicongsan.org.vn
Bài liên quan
- Truyền thông về văn hoá truyền thống trên báo mạng điện tử qua chiến lược kể chuyện đa nền tảng
- Báo chí cách mạng Việt Nam trong kỷ nguyên số dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh
- Hoạt động truyền thông của các câu lạc bộ tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền và Học viện Ngoại giao
- Thực trạng và giải pháp tạo nguồn thu cho báo mạng điện tử ở Việt Nam
- Một số giải pháp tăng cường quản lý thông điệp về nguồn nhân lực chất lượng cao trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
Xem nhiều
-
1
Video Đại hội đại biểu Đảng bộ Học viện Báo chí và Tuyên truyền lần thứ XII, nhiệm kỳ 2025-2030
-
2
[Video] Khai mạc Hội Báo toàn quốc 2025
-
3
Quan điểm của Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế và nâng cao đời sống của nhân dân
-
4
Đại hội Đảng bộ Học viện Báo chí và Tuyên truyền lần thứ XII, nhiệm kỳ 2025-2030 thành công tốt đẹp
-
5
Đồng chí GS,TS Nguyễn Xuân Thắng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Đảng uỷ, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng lý luận Trung ương dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ Học viện Báo chí và Tuyên truyền lần thứ XII, nhiệm kỳ 2025 - 2030
-
6
Hoạt động truyền thông của các câu lạc bộ tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền và Học viện Ngoại giao
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Học viện Báo chí và Tuyên truyền tham gia gian trưng bày tại Hội báo toàn quốc 2025
Sáng 19/6, tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Hội báo toàn quốc 2025 khai mạc với chủ đề "Báo chí Việt Nam - Trung thành, Sáng tạo, Bản lĩnh, Đổi mới vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc". Học viện Báo chí và Tuyên truyền tham gia gian trưng bày tại Hội báo toàn quốc 2025 nhằm giới thiệu các sản phẩm đào tạo, nghiên cứu tiêu biểu, qua đó khẳng định vai trò của Học viện là trung tâm đào tạo, nghiên cứu hàng đầu trong lĩnh vực báo chí, truyền thông và lý luận chính trị. Hoạt động này cũng góp phần tăng cường kết nối, lan tỏa hình ảnh Học viện trong không gian báo chí toàn quốc, nhất là trong bối cảnh chuyển đổi số và hội nhập quốc tế
Truyền thông về văn hoá truyền thống trên báo mạng điện tử qua chiến lược kể chuyện đa nền tảng
Truyền thông về văn hoá truyền thống trên báo mạng điện tử qua chiến lược kể chuyện đa nền tảng
Bối cảnh toàn cầu hóa và kỷ nguyên số ngày nay đang mở ra nhiều không gian hơn bao giờ hết cho sự giao thoa và tiếp biến của các nền văn hóa trên toàn cầu. Trong điều kiện đó, việc bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống đang đứng trước nhiều thách thức, đòi hỏi phải có sự đổi mới về tư duy, phương pháp, cách thức thực hiện. Truyền thông đóng vai trò rất quan trọng trong việc gìn giữ, lan tỏa và các giá trị văn hóa truyền thống, làm cho những giá trị ấy luôn có sức sống qua các thế hệ cộng đồng. Bối cảnh mới hiện nay đòi hỏi những phương thức truyền thông mới, có khả năng kết nối cảm xúc và thích ứng với thói quen tiếp nhận đa dạng của công chúng hiện đại. Chiến lược kể chuyện đa nền tảng (transmedia storytelling) nổi lên như một giải pháp hiệu quả, cho phép truyền tải giá trị văn hóa thông qua hệ sinh thái nội dung phong phú, kết nối nhiều nền tảng và phương tiện truyền thông khác nhau.
Báo chí cách mạng Việt Nam trong kỷ nguyên số dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh
Báo chí cách mạng Việt Nam trong kỷ nguyên số dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi số diễn ra sâu rộng, báo chí cách mạng Việt Nam đứng trước yêu cầu đổi mới toàn diện, hiện đại hóa nhưng vẫn giữ vững bản chất cách mạng. Vận dụng đúng đắn, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí cách mạng không chỉ là đòi hỏi mang tính thời sự, mà còn là cơ sở lý luận cho việc tiếp tục xây dựng nền báo chí cách mạng Việt Nam hiện đại, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
Hoạt động truyền thông của các câu lạc bộ tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền và Học viện Ngoại giao
Hoạt động truyền thông của các câu lạc bộ tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền và Học viện Ngoại giao
Trong bối cảnh giáo dục đại học hiện đại, các câu lạc bộ sinh viên không chỉ là môi trường thực hành kỹ năng mà còn là kênh quan trọng để xây dựng và lan tỏa thương hiệu của cơ sở đào tạo. Hoạt động truyền thông của câu lạc bộ được triển khai qua nhiều hình thức tương tác trực tuyến và trực tiếp, đóng vai trò kết nối giữa sinh viên, giảng viên và các đối tác bên ngoài. Bài viết này phân tích hoạt động truyền thông của các câu lạc bộ của sinh viên tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền và Học viện Ngoại giao dựa trên các lý thuyết truyền thông đại chúng, truyền thông tổ chức và quan hệ công chúng, nhằm làm rõ mối quan hệ giữa chủ thể, nội dung và phương thức triển khai truyền thông. Trên cơ sở khảo sát thực tiễn và phỏng vấn chuyên sâu, bài viết đề xuất giải pháp hoàn thiện quy trình truyền thông, nâng cao năng lực chuyên môn và tăng cường hợp tác liên tổ chức để nâng cao chất lượng thông điệp, mở rộng phạm vi tiếp cận và đảm bảo tính bền vững cho cộng đồng câu lạc bộ sinh viên.
Thực trạng và giải pháp tạo nguồn thu cho báo mạng điện tử ở Việt Nam
Thực trạng và giải pháp tạo nguồn thu cho báo mạng điện tử ở Việt Nam
Trong bối cảnh hiện nay, báo chí Việt Nam đang chuyển mình mạnh mẽ để hòa nhịp cùng mạch đập phát triển sôi động của thời đại. Ngày nay, loại hình báo in dần lui về phía sau để nhường lại “không gian tương tác” cho loại hình báo mạng điện tử bởi những thế mạnh mà báo in truyền thống không có...Với thế mạnh nổi trội của mình, báo mạng điện tử không chỉ là nguồn cung cấp thông tin “nhanh, hot, cập nhật không ngừng”, mà còn hứa hẹn là một cánh đồng rộng lớn cho mục tiêu gia tăng giá trị về mặt kinh tế. Việc phát triển các nguồn thu bền vững có thể nói là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển lâu dài của các cơ quan báo chí nói chung và các cơ quan báo mạng điện tử nói riêng.
Bình luận