Hoạch định và thực thi chính sách biển Việt Nam trong tình hình mới
1. Đổi mới tư duy chiến lược về chính sách biển
Tư duy chiến lược về chính sách biển là tư duy về những vấn đề tổng thể, vĩ mô, xuyên suốt quá trình hoạch định, xây dựng và thực thi chính sách biển, bao gồm phát triển và sử dụng hiệu quả các tiềm lực quốc gia, các lực lượng bảo vệ chủ quyền biển đảo, thực thi pháp luật trên biển, đẩy mạnh kinh tế biển, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia nhằm ứng phó các tình huống chiến lược, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Tư duy chiến lược trong chính sách biển ảnh hưởng trực tiếp đến việc dự báo, hoạch định phương hướng cho toàn bộ các lĩnh vực của chính sách biển mà tâm điểm là bảo đảm quốc phòng - an ninh trên biển và phát triển các lĩnh vực kinh tế biển (vận tải biển, cảng biển, đóng tàu, thăm dò và khai thác nguồn tài nguyên biển...), đồng thời định hướng, điều tiết tổng thể đối với các lực lượng trực tiếp làm nhiệm vụ trên biển như lực lượng Hải quân, Cảnh sát biển, Bộ đội Biên phòng, Kiểm ngư, Dân quân tự vệ biển.
Bối cảnh thế giới và khu vực hiện đang có nhiều bất đồng, mâu thuẫn về tranh chấp chủ quyền biển đảo, thậm chí một số khu vực đã trở thành điểm nóng, trong đó có Biển Đông. Bên cạnh đó, cuộc chạy đua trở thành cường quốc biển diễn ra ngày càng phức tạp, đặc biệt là sự cạnh tranh quyết liệt trên lĩnh vực kinh tế biển. Thực tế đó đặt ra yêu cầu phải đổi mới tư duy chiến lược và nâng cao chất lượng quản lý của Nhà nước về hoạch định và thực thi chính sách biển. Cần thay đổi tư duy chiến lược theo hướng đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng hoàn thành sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Chiến lược phải bao hàm phát triển toàn diện với tầm nhìn dài hạn và có lộ trình cụ thể.
Chất lượng quản lý vĩ mô của Nhà nước về lĩnh vực quốc phòng - an ninh trên biển và các ngành kinh tế biển cần được nâng cao nhằm xây dựng và hoàn chỉnh các nội dung của chính sách biển, cụ thể hóa các quy phạm về quản lý và khai thác biển đảo nhằm tăng hiệu lực thực thi. Tiếp tục phát triển các lực lượng trực tiếp làm nhiệm vụ trên biển vững mạnh, toàn diện về mọi mặt; đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế biển với tầm nhìn dài hạn, chuẩn bị sức mạnh tổng hợp để ngăn ngừa và sẵn sàng tiến hành thắng lợi chiến tranh trên biển đảo nhằm bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
2. Tăng cường nghiên cứu, dự báo sự phát triển chiến lược biển của các nước trên thế giới
Dự báo khoa học là một phần không thể thiếu của công tác nghiên cứu lý luận và thực tiễn nói chung. Nghiên cứu, dự báo chiến lược quốc phòng - an ninh trên biển và phát triển các lĩnh vực kinh tế biển là rất cần thiết trong công tác tham mưu hoạch định và triển khai chính sách biển, cũng như đẩy mạnh nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng. Hiện nay, trên thế giới và trong khu vực đã, đang và sẽ xuất hiện các tình huống cũng như xu thế mới mang lại thời cơ và thách thức, hợp tác và đấu tranh, đối tượng và đối tác trong hoạch định và thực thi chính sách biển.
Nghiên cứu và dự báo chiến lược bảo đảm quốc phòng - an ninh trên biển đảo và phát triển kinh tế biển cần phân tích khả năng xuất hiện tình huống, xu thế mới, một mặt làm cơ sở xây dựng luận chứng, tham mưu chiến lược cho Đảng và Nhà nước, mặt khác, định hướng cho nghiên cứu cơ bản về chính sách biển trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh, phát triển kinh tế biển, hợp tác quốc tế về biển, phân định biển, bảo vệ môi trường biển theo quan điểm phát triển bền vững.
Trong bối cảnh thế giới và khu vực có sự biến chuyển phức tạp, vừa thuận lợi vừa khó khăn, thì công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược cần tập trung dự báo sự phát triển mới của lý luận và thực tiễn cũng như sự tác động của nó đến chính sách biển Việt Nam.
Trước hết, cần tập trung luận giải các khía cạnh mới trong lý luận về bảo đảm quốc phòng - an ninh trên các vùng biển đảo, như sự thể hiện mới trong bản chất, tính chất của bảo đảm quốc phòng - an ninh biển đảo, phương thức, lực lượng thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền và thực thi pháp luật trên các vùng biển và thềm lục địa. Thực tiễn đòi hỏi cần tăng cường nghiên cứu, dự báo xu thế phát triển của chính sách biển trong thế giới đương đại, chỉ ra những định hướng cơ bản để hoạch định và triển khai thực hiện có hiệu quả chính sách biển Việt Nam đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.
Hoạch định đường lối, chính sách biển của một quốc gia cần gắn với việc nghiên cứu, dự báo về chính sách biển của các nước trên thế giới. Trên thực tế, có quốc gia thiên về xây dựng và thực thi chính sách biển trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh, có những nước tập trung thực thi chính sách biển trong lĩnh vực kinh tế và cũng có trường hợp xoay quanh vấn đề quyền lực trên biển. Song nhìn chung, trên thế giới đã và đang xuất hiện một cuộc cách mạng mới trong hoạch định chính sách biển với nhiều biến đổi sâu sắc, nhiều bước nhảy vọt cả về tư tưởng - lý luận, phương thức tổ chức và hoạt động của các lực lượng bảo vệ chủ quyền biển đảo và các thành phần phát triển kinh tế biển, cũng như về chất lượng nguồn nhân lực và vũ khí, trang bị quân sự, cơ sở hạ tầng. Do đó, cần nghiên cứu chính sách biển của các nước trên thế giới để học hỏi kinh nghiệm, đồng thời hiểu rõ đối phương, đề cao cảnh giác và có thể xây dựng phương thức, biện pháp ứng phó cần thiết.
3. Tổng kết thực tiễn, phát triển hệ thống lý luận về chính sách biển
Trước hết, cần khẳng định tính tất yếu xây dựng hệ thống lý luận trong quá trình hoạch định và triển khai thực hiện chính sách biển của Việt Nam cả về những nguyên tắc và định hướng cơ bản bao gồm chiến lược quốc gia, chiến lược ngành, chuyên ngành, kế hoạch chiến lược... mà ở mỗi cấp độ, các vấn đề cơ bản của chính sách phải được thực hiện đầy đủ và sâu sắc. Trước mắt, cần xây dựng, bổ sung, hoàn chỉnh các quan điểm về xây dựng chính sách biển, các văn kiện chiến lược về biển đảo, chiến lược xây dựng chính sách biển trong tình hình mới.
Cần khái quát một số vấn đề cơ bản trong tham mưu chiến lược về hoạch định và triển khai chính sách biển để có nhận thức sâu sắc hơn, thúc đẩy việc giải quyết các vấn đề chiến lược của chính sách biển Việt Nam một cách có cơ sở khoa học. Việc nhận thức và giải quyết từng vấn đề hay từng lĩnh vực của chính sách biển luôn dựa trên tiền đề cơ sở, đồng thời trở thành động lực của việc nhận thức luận và giải quyết các vấn đề khác có liên quan trong một chỉnh thể thống nhất. Đó là logic đi từ nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và dự báo khoa học để đề ra quyết sách. Đồng thời từ tổng kết thực tiễn quá trình thực hiện quyết sách để khái quát thành hệ thống lý luận cơ bản, mang tính chính thống. Do vậy, để hoạch định và triển khai thực hiện chính sách biển Việt Nam một cách bền vững, đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn trong bối cảnh thế giới và khu vực có nhiều diễn biến mới, cần có những giải pháp đồng bộ và khả thi, trong đó cần bổ sung, sửa đổi những vấn đề còn bất cập của nội dung chính sách biển hiện hành.
4. Một số phương hướng và giải pháp thực thi chính sách biển hiện hành của Việt Nam
Thứ nhất, Nhà nước cần tập trung xây dựng lực lượng bảo vệ chủ quyền biển đảo ngày càng vững mạnh, toàn diện về mọi mặt. Các lực lượng trực tiếp làm nhiệm vụ trên biển, vừa bảo vệ chủ quyền vừa duy trì việc chấp hành pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế có liên quan, cụ thể là lực lượng Hải quân, cảnh sát biển, bộ đội biên phòng và kiểm ngư phải được đầu tư trang thiết bị hiện đại ngang tầm khu vực và thế giới. Phương tiện và trang thiết bị và của các lực lượng bảo vệ chủ quyền biển đảo phải có khả năng hoạt động dài ngày trên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam.
Thứ hai, cần xác định rõ vai trò của các lĩnh vực kinh tế biển; hệ thống chính sách phát triển kinh tế biển phải đồng bộ và cụ thể, tránh chung chung, dàn trải. Các vùng biển đảo Việt Nam có rất nhiều tiềm năng nhưng hiện nay phát triển kinh tế biển đang dưới mức tiềm năng đó. Nguyên nhân căn bản là do chính sách kinh tế biển chưa hoàn thiện, một số lĩnh vực chưa có sự phát triển đột phá, nhất là cảng biển và vận tải biển. Do đó, đầu tư kinh tế biển phải tương xứng với tầm nhìn dài hạn: xây dựng hệ thống cảng biển, phát triển hệ thống vận tải biển, lĩnh vực khai thác tài nguyên biển đủ sức vươn ra xa trên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Thứ ba, chính sách về biển phải thể hiện rõ mục tiêu phân định biển, vừa bảo đảm hòa bình và ổn định vừa giữ được lợi ích cốt lõi của quốc gia trên biển đảo, đồng thời phù hợp với hệ thống quy phạm pháp lý quốc tế về biển. Nhà nước giải quyết các tranh chấp liên quan đến biển đảo với các nước khác bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982, pháp luật và thực tiễn quốc tế.
Thứ tư, trong bối cảnh hiện nay, cần áp dụng song hành hai học thuyết sức mạnh biển truyền thống và các đặc trưng sức mạnh biển hiện đại. Bảo vệ các tuyến hàng hải chính là bảo vệ những con đường huyết mạch nối các cảng thương mại, cảng tiếp vận và quân cảng. Cùng hợp tác với các cường quốc biển để các con đường SLOC(1) (các tuyến thông thương biển) xung quanh Biển Đông ngày càng phát triển. Chúng ta cần trang bị đủ hệ thống tàu thuyền, máy bay hiện đại giám sát và kiểm soát được hoàn toàn các vùng biển, trong đó có khu vực Côn Đảo - Trường Sa - bờ biển, tức là đã kiểm soát được một SLOC quan trọng trong hàng hải thế giới(2).
Tóm lại, theo thời gian, dù nội dung chính sách biển có thể thay đổi, nhưng các quan điểm, học thuyết xây dựng chính sách về biển vẫn giữ lại tiêu chí căn bản vốn có của nó là phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển. Việc hoàn thiện chính sách về biển cần hướng tới mục tiêu rõ ràng và phải thể hiện sâu sắc hơn nữa những tiêu chí căn bản của học thuyết xây dựng chính sách về biển cho phù hợp với điều kiện xã hội Việt Nam hiện nay.
__________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 10-2020
(1) Sea lines of communication- SLOC.
(2)http://tiasang.com.vn/-dien-dan/Hoc-thuyet-suc-manh-bien-hien-dai-va-trien-vong-ap-dung-voi-Viet-Nam-10007.
Tài liệu tham khảo:
1. Alfred Thayer Mahan: Ảnh hưởng của sức mạnh trên biển đối với lịch sử, 1660 - 1783, Nxb Tri thức, Hà Nội, 2012.
2. H.J.MacKinder: The Geographical Pivot of History, The Geographical Journal, Vol. XXIII. No. 4. 1904.
3. Roach and Smith: Excessives Maritime Claims, International Law Studies, vol.66, 1994
4. R.Deyanov: The Role and Security Objective of Confidence - Building Measures at Sea in UN, Department for Disarmament Affairs, Naval Confidence - Building Measures, 1990.
5. G.Francalanci and T.Scovazzi: Lines in the Sea, Nijihoff, London, 1994.
6. E.Gold: “National and international shipping policies and the environment: the perspective of Vietnam”, Rapport on the Conference of the Marine Policy in Vietnam, 1991.
TS Nguyễn Thanh Minh
Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển, Bộ Quốc phòng
Nguồn: http://lyluanchinhtri.vn
Bài liên quan
- Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
- Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
- Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- Phát huy vai trò của ngành công nghiệp xuất bản trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 3 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến hoạt động báo chí
Bài viết nghiên cứu về tác động của truyền thông xã hội đối với hoạt động báo chí hiện nay, tập trung vào sự thay đổi trong hoạt động sản xuất, phân phối tin tức và cấu trúc nội dung báo chí. Truyền thông xã hội đã trở thành một nguồn tin phong phú, đa chiều và nhanh chóng, làm thay đổi đáng kể cách thức thu thập và truyền tải thông tin. Tuy nhiên, tính xác thực của nguồn tin mạng xã hội vẫn là một thách thức, đòi hỏi báo chí phải chú trọng vào việc kiểm chứng và phản hồi thông tin một cách chính xác. Trên tinh thần đó, bài viết đề xuất báo chí cần phát triển nội dung chất lượng cao, tăng cường kỹ năng công nghệ số của phóng viên và xây dựng các nền tảng số riêng để giảm sự phụ thuộc vào truyền thông xã hội, đảm bảo tính chính xác và đáng tin cậy trong kỷ nguyên số.
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Nhìn toàn bộ tiến trình lịch sử chính trị của dân tộc, “Hệ thống chính trị” nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thiết chế chính trị mạnh, mô hình này phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đúng với quy luật vận động của lịch sử. Và, cũng từ thực tế lịch sử, có thể thấy sức mạnh thực sự của Hệ thống chính trị mà chúng ta đang có chủ yếu không phải do tính chất nhất nguyên mà là do uy tín của Đảng, Nhà nước và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sức sống của hệ thống chính trị là sự phù hợp, thống nhất giữa mục đích của Đảng với nguyện vọng của nhân dân, với nhu cầu phát triển của đất nước. Hệ thống chính trị Việt Nam đương đại, trên cơ sở kết tinh các giá trị thiết chế truyền thống gắn với hiện đại không ngừng đổi mới phát triển khẳng định sức mạnh của Hệ thống tổ chức quyền lực Chính trị Việt Nam có vai trò quyết định thành công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Xây dựng tổ chức bộ máy hiệu lực, hiệu quả là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn kết, thống nhất, dũng cảm, sự hy sinh của từng cán bộ, đảng viên cùng với quyết tâm rất cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về xây dựng hệ thống chính trị với tiêu đề: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”:
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Với cộng đồng 54 dân tộc anh em, Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa đa dạng, phong phú, có những nét riêng, trở thành tài sản quý giá làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam độc đáo, đặc sắc. Giữ gìn và bảo vệ các giá trị di sản văn hóa truyền thống chính là góp phần củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc - một sức mạnh nội sinh to lớn và vĩ đại, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chạy đua vũ trang, các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraina ở Đông Âu, giữa Israel và Palestine vùng các tổ chức hồi giáo ở Trung Đông diễn biến ngày càng căng thẳng đe dọa tới hòa bình, an ninh khu vực và thế giới. Tuy vậy, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là mục tiêu hướng tới của các nước, là xu hướng chính trị -xã hội tất yếu của nhân loại, từ đó đặt ra vai trò, trách nhiệm của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Bình luận